Tuesday, March 31, 2015

TRỞ LẠI CHARLIE (Phần 5).


Nhang rừng rực cháy trên đỉnh 1015

Từ đây, chúng tôi đã thấy rừng thông. Nhưng thông không thể trồng khắp các điểm cao được. Nó chỉ ở những vạt đất đỏ mà thôi còn những sườn dốc đá vẫn là cỏ lau khô sác. Tôi đang cố hình dung ra đâu là M11, M12, đâu là D1, D2 . Tôi đang cố hình dung ra 12,7 li bố trí thế nào mà hôm ấy đại đội 2 D16 của Khuất Đình Nuôi, trong vòng 15 phút bắn rơi 5 máy bay địch và cả trận đánh này, riêng đại đội anh đã hạ 9 máy bay các loại. Chúng tôi dừng xe trên sườn đất đỏ để xác định nơi đại đội 7 bị bom cháy lúc 2 giờ chiều 13/4/72, làm hi sinh 24 chiến sĩ và hơn 10 người bị thương. Tôi nhớ chuyện anh Kiều Thế, người Thái Nguyên bị cháy hôm ấy mà không chết. Sau này anh Thế trở về làm trưởng phòng ở Sở Thủy Lợi Thái Nguyên, vẫn mang những vết cháy sần sùi trên mặt trên tay. Tôi gọi anh Hinh, người đại đội trưởng can trường của D8. Tôi đứng giữa các mỏm M11, M12. Nhìn những yên ngựa hẹp vanh vanh mà bộ đội ta vượt qua để tấn công, hỗ trợ cho nhau. Những yên ngưa ấy, hôm nay toàn là lau lách, vàng như rơm. Máu các đồng đội tôi đổ xuống chảy rẽ sang hai sườn đồi dốc đứng. Gió ngàn ngạt thổi, cỏ lau phất phơ, trong gió có mùi nhựa thông, mùi hoa cà phê từ phía DakTo ngạt ngào. Hít căng lồng ngực ngọn gió cao nguyên, tôi nhìn dòng Pô Ko ở phía mặt trời đang chói chang. Bốn mươi ba năm trước, đồng đội tôi có kịp thấy mặt trời như hôm nay không? M11 đây rồi. Loạt bom B52 rơi đúng sở chỉ huy tiểu đoàn 8 . Chỉ huy tiểu đoàn, trinh sát thông tin hi sinh hết. Trong giờ phút ấy, các đơn vị vẫn xốc đội hình xung phong. Đây rồi, cao điểm hầm hố chỉ còn những vạt đất lồi lõm, mọc đầy lau và có xấu hổ. Tôi như thấy anh Đàm Vũ Hiệp còn đây. Người con trai Phúc Thọ, Sơn Tây học giỏi, làm thơ hay vẫn đang đứng trong nắng vàng Kon Tum. Anh Hiệp ơi, đứa con gái ngày anh đi chiến đấu Tây Nguyên chưa ra đời, nay đã là cô giáo ở trường Sĩ quan lục quân Sơn Tây. Chúng tôi vẫn nghe như anh đọc bài thơ “ Chiếc áo trấn thủ” để động viên chiến sĩ. Hai mươi ba tuổi, anh đã là một Đại uý Tiểu đoàn trưởng, dạn dầy trận mạc. Anh nằm đây nghe rì rào dưới kia dòng Pô Cô vẫn chảy. Chúng tôi vẫn nhớ anh ước ao phá toang phòng tuyến này sẽ nhẩy xuống sông Pô Cô mà tắm cho thoả thích, cho bõ cả tháng trời không một lần tắm giặt.
Chúng tôi thắp nén nhang trên miếu thờ hơn ba mươi công nhân, trồng rừng trên Charlie đã hi sinh vì bom mìn còn sót lại lúc 10 giờ sáng. Nắng vàng như nghệ và gió như ngựa hoang quất đuôi vun vút. Ngước lên đỉnh cao nhất của 1015, một màu sám đen những đá và cỏ khô. Đỉnh cao ấy không có xe nào leo lên được đến chèo bộ cũng khó. Anh Hinh hi sinh trên mỏm ấy. Tôi bỗng nhớ Trần Xuân Lược sau này là đại đội trưởng lúc 19 tuổi. Lúc lên mỏm cao này Lược là liên lạc. Vừa truyền lệnh, Lược vừa đánh địch. Lược nhanh như sóc và bạo gan đánh gần. Ngoài viêc hoàn thành nhiệm vụ của mình Lược tiêu diệt 9 tên địch. Khi đã là đại đội trưởng, hàng đêm vẫn chui vào hầm của tôi, để gạ tôi kể chuyện tán gái. 6 năm sau trận đánh 1015 Lược hi sinh ở Biên giới Tây Nam khi đang là Tham mưu trưởng trung đoàn. Trong hun hút gió, tôi nhìn xuống dốc núi thăm thẳm và thấy như Trần Xuân Lược đang leo lên, leo xuống sườn núi trong bom, trong đạn lửa. Tôi nhớ trong đêm mùa mưa, nằm trong hầm lép nhép bùn ở đường 19 Gia Lai, Lược nói với tôi “Đánh 1015 xong trở về đại đội hành quân không cần truyền lệnh”. Đại đội chủ công của tôi trong tiểu đoàn chủ công cũng chỉ ngót mươi người lành lặn. Người đi đầu có thể ngoái lại nói với người đi cuối đội hình. 1015 Một khúc ca bi hùng. Khúc ca về một vùng đồng đội của chúng tôi.
Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống dòng Pô Cô loang loang trắng ở phía đông. Ngọn núi như cái đầu người hói. Công ty Nguyên Liệu Giấy cũng chỉ trồng cây ở phía dưới chân lên lưng chừng. Đỉnh núi trơ trọi vì bom và chất độc phát quang nhiều quá. Đến nỗi bây giờ cây vẫn không mọc được. Ở đây chỉ có một thứ cỏ lau và cỏ Mĩ khô sác đến nỗi chỉ cần một mồi lửa là cả quả núi sẽ thành núi lửa. Đột nhiên tôi nghĩ tới cái bật lửa của A trưởng Nguyễn Mạnh Khởi, người Văn Giang, Hưng Yên. Khởi bị thương ở 1015. Nằm viện 3 tháng rồi về cùng trung đội với tôi. Khởi có thói quen, cứ đêm đêm là giở ba lô lấy cái bật lửa Zipo ra xem. Chúng tôi gạ đổi cái gì Khởi cũng không đồng ý. Có lần anh gắt. Đừng gạ bật lửa của tao nữa. Đây là cái bật lửa của thằng Nọn cùng làng tao. Nó chết trên mỏm dốc nhất cùng anh Hinh đấy. Tao bò lên nó mở mắt bảo tao, mày mang cái bật lửa về cho bố tao. Từ ấy, không ai dám hỏi gì nữa về cái bật lửa.
11 giờ trưa trên đỉnh Charlie, tôi chọn một chỗ không có cỏ khô, lập bập thắp nhang cho đồng đội. Tôi quay nhìn về phía Tây, ngọn Chư Mom Ray xanh mờ huyền ảo. Dãy Ngọc Rinh Rua thơ mộng thế. Dưới kiam những đụn khói đốt nương le lói. Làng Rờ Kơi có con suối bé như sợi chỉ yên bình. Tôi gọi tên anh Hiệp D trưởng, anh The chính trị viên, anh Hinh đại đội trưởng đại đội 7, anh Cường Chính trị viên đại đội 7, anh Tiến đại trưởng đại đội 6, anh Hoà đại trưởng đại đội 11, anh Hải đại đội trưởng quân y 24, anh Đồng chính trị viên ở D8…gọi những cái tên trẻ già bất tử. Tôi chợt nhớ lời trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến “ Khi nghe báo cáo Hiệp, The và toàn bộ trinh sát thông tin D8 hi sinh chúng tôi bàng hoàng …ngày đầu tiên 12/4/72 ta dã diệt được một phần sinh lực địch và chiếm được một số điểm cao nhưng rõ ràng pháo ta bắn chưa đủ mạnh. Đêm ấy ông Kim Tuấn Sư đoàn trưởng lệnh cho bộ đội dãn ra để pháo bắn tiếp. Họp xong, quyết định xong thì trời gần sáng, tôi xin hoãn lại vì sợ bộ ta thương vong tổn thất . Một ngày 13/4 ,bộ đội ta nằm lưng chừng dốc chịu bao nhiêu là ác liệt nhưng thà thế còn đỡ thương vong hơn giãn ra lúc này. Một ngày lửa cháy trong ruột tôi…Ngày 14/4 ta bắn pháo dữ dội và chiều hôm ấy các mũi xung phong lẫm liệt. Cả D11 dù chỉ thoát ba bốn chục tên.”
Bó nhang cháy rừng rực giữa trưa. Tôi đứng ngước lên đỉnh điểm cao mang cái tên 1015 mà khấn các anh. Tôi quay mặt về hướng tây mà lạy các anh, tôi vái tứ phía các D1, D2, D3, tôi không biết còn những ai đã hòa tan vào đất đỏ Charlie này. Tôi biết hầu như các liệt sĩ hi sinh trong trận 1015 không còn di vật gửi về. Các anh đã chịu bom na pan đốt trận địa, chịu pháo bầy, chịu B52 suốt ba ngày đêm, quần áo rách bươm và ba lô cũng không còn. Tất cả những người lính chịu khát trên núi mà ôm súng, mà gùi đạn lên bình độ 1000, mà đánh địch. Tôi không thể biết màu đỏ đất Bazan này có bao nhiêu dòng máu của những trai trẻ ,từng ngấm vào thớ đất để mùa khô, mùa mưa vắt thành nhựa thông, thành ngô, thành cà phê hôm nay, hương thơm ngan ngát không gian.
Nơi đây, trung đoàn tôi đã xóa sổ một tiểu đoàn dù mang danh “Song kiếm Trấn ải”. Hơn 600 xác lính dù phải bỏ lại không thể mang về. Nơi đây Trung đoàn tôi khai tử cái tự hào của lính dù không bao giờ bị tiêu diệt gọn cấp tiểu đoàn. Cánh cửa tây PO CO mở toang để 14 ngày sau chiến dịch ĐAK TO- TÂN CẢNH tiêu diệt sư đoàn 23 VNCH bắt đầu.
Nơi đây hôm nay có một người lính đã già đứng run run trong nắng gió 1015 gọi tên đồng đội. Nơi đây có một bài hát ra đời, mang tên MỘT VÙNG ĐỒNG ĐỘI, hào hùng mà da diết thương nhớ. Nơi đây, thời hoà bình những người trồng rừng đã đến. Họ phá hoang phát rẫy, trồng thông, trồng cây nguyên liệu giấy. Charlie lại cướp đi tính mạng mấy chục con người. Cái miếu thờ kia là Công ty Nguyên liệu giấy dựng lên, để ghi nhớ công lao những người công nhân xấu số. Còn chúng tôi, sau bốn mươi năm, chúng tôi chưa về đây mà thắp hương cho mấy trăm liệt sĩ trên đỉnh cao này. Chúng tôi có lỗi với hương hồn các anh. Có lỗi với biết bao nhiêu người mẹ, người vợ của các anh.
1015 - Một vùng cỏ cây xác xơ và đất đỏ - Một vùng đồng đội không trở về- Một vùng tâm linh mà những người lính trung đoàn 64 F320 còn mắc nợ. Mắc nợ một tấm bia tưởng niệm trên đỉnh núi. Chẳng có đỉnh núi cao nào mà con người lại không lên được. Chỉ sợ đỉnh núi hiện hữu mà lại bị con người lãng quên. Tôi nghe trong rừng rực bó nhang cháy trưa nay nhắc thế.

Kon Tum đêm 24/3/2015- Hà Nội 2/4/2015










Trên đỉnh 1015 lúc 11 giờ trưa



SÂN TRƯỜNG MỘT SÁNG THÁNG 5 (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Trình Bày: Artista )-Phiên bản mới

CHUYỆN TÌNH HOA GIẤY (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Quỳnh Hợp) .Phiên bản mới

ĐÀN TÍNH NGƯỜI ƠI (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Y Jang Tuyn)

HOA CỎ MAY (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Đông Đào )-Phiên bản mới

VỀ BẾN DƯỢC (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ :

ĐÊM CUỐI MẸ RU CON (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Trang Nhung )

HOA TRINH NỮ (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Trình Bày: Artista ) Phiên bản mới

Một vùng đồng đội (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Trang Nhung )-Phiên bản mới

MƯA THÁNG 7 (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Trình bày: Artista )

NẮNG Ở CẦU BÔNG (Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân- Ca sĩ : Y Jang Tuyn )

ĐÊM ĐỒNG DÙ ( Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ: Nguyễn Trọng Luân -Trình bày: Artista)

KHOẢNG LẶNG TRƯỚC BÌNH MINH ( Nhạc: Quỳnh Hợp- Thơ : Nguyễn Trọng Luân - Ca sĩ: Y Jang Tuyn )

Monday, March 30, 2015

Lời của người chiến sĩ nằm lại trên cao nguyên




Chúng tôi những chiến sĩ binh đoàn Tây nguyên 
Đã tan vào đất 
Chiều nay bỗng thấy hoa sen thơm ngát 
Đưa chúng tôi về với ao làng 

Cho chúng tôi về với mùa trăng 
Em giặt áo cầu ao ngày tôi lên đường nhập ngũ 
Gốc rơm xiêu bóng mẹ
Mấy mươi năm hoa cỏ vẫn thơm lòng 

Khói hương chở chúng tôi ngày một ngày rằm 
Bàn thờ nghèo chỉ lá trầu bát nước 
Dẫu thân xác lấm đất bùn khi chết 
Thì  thảo thơm đã có cả xóm giềng 

Chiều nay chúng tôi gặp hoa sen 
Ai hái đó , cho cao nguyên này man mát  
Em đấy ư ? ao làng còn hay hết ? 
Cánh chuồn run run mùa hạ chúng tôi về 

Cả Binh đoàn thao thức ở rừng xưa 
Lòng đất lạnh lại từng cơn sốt rét 
Ai đưa về đây hương hoa sen kiếp trước ?
Máu Ba zan còn đỏ đến bao giờ  





Kí ức Tháng Tư ( Phần 4 )


         Vào giờ phút ấy , khắp các ngả đường làng mạc quanh sài gòn đâu cũng thấy quân giải phóng . Gương mặt người lính đi đánh trận mà dãn ra tươi như đi hội . Quân phục đã được thay mới , cờ giải phóng , phù hiệu giải phóng , băng tay xanh đỏ trùng trùng điệp điệp . Con đường vào thành phố đầy dẫy lô cốt ụ súng bằng bao cát , thùng phuy cửa kẽm gai ngăn ra từng đoạn . Tiểu dội tôi 5 thằng leo lên một cái xe lam . Tôi giở bản đồ nhè đường tắt mà chạy . Xe nhỏ luồn lách tốt nên vượt xa đội hình tiểu đoàn . Tới Bẩy Hiền , trong khói đạn đơn vị bạn đang thu thập tử sĩ , chúng tôi rẽ ra Lăng Cha cả . Ở đây một trận đánh dữ dội đang diễn ra . Lữ đoàn xe tăng của ta cháy mất 4 chiếc . Chúng tôi len lỏi trong xe cháy xe hỏng vượt cầu Trương Minh Giảng tiến tới dường Phan Đình Phùng thì bị chặn lại bằng hàng loạt đạn đại liên từ trên tháp nước bắn xuống . Cả tiểu đội lăn ào xuống đường dùng Ak bắn tới tấp về cái tháp nước có khẩu đại liên ( chỗ đó bây giờ là khách sạn Võ Văn Tần ) . Mười giờ trưa tiểu đoàn dải quân dọc Bộ Dân vận Chiêu hồi . Bộ đội hạ cối 82 ngay trên đường phố bắn về phía có vườn cây Dinh Độc lập . Một chiếc xe dép kính vỡ toe toét chạy lên . Nhìn ra thì là anh Thuỷ . Cậu liên lạc từ trên xe hét lên rối rít : “ Đừng bắn nữa , đấm đít D9 rồi “ quãng hơn 11 giờ  nghe qua radio tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng , cả khung trời vỡ oà tiếng reo hò . Hàng chục ngàn người nhẩy lên , ôm nhau trong nước mắt . Đường phố Sài Gòn dồn nén bao lâu bỗng nhiên ùa ra toàn những cờ đỏ sao vàng . Bỗng chốc thành phố là một bức tranh xanh đỏ . Những hàng phượng vĩ trổ hoa đầu mùa đỏ thắm , cờ đỏ thắm , dưới nền trời quân phục xanh . Một biển người mừng đến ngơ ngác . Bỗng chốc con người lơ mơ hụt hẫng giữa không gian mới lạ , mới lạ ngay cả với người đã sống ở đây từ bao năm . Vào giờ phút ấy , lính nguỵ trong thành phố còn đông hơn cả dân ngoài đường . Họ trút bỏ hết quần áo lính mặc quần cụt ngồi la liệt vỉa hè,  vườn hoa,  bến cảng . Những cặp mắt thất thần nhìn quân giải phóng chiến thắng . Chẳng ai để ý đến họ , đội quân đã hết sức chiến đấu , không còn phiên hiệu tơi tả khắp đô thành . Đường phố ngổn ngang quân trang quân dụng mang nhãn hiệu Mỹ , xe pháo của Mỹ đứng bất động , chỉ có quân giải phóng là hân hoan , mắt nói miệng nói . Tự nhiên người tôi rũ ra mệt nhoài , không muốn cầm súng nữa .
   
      Thời gian như ngừng trôi và không gian trở nên chật hẹp . Tôi có cảm giác mình đang sống trong mơ , một giấc mơ huy hoàng và kì vĩ . Bao ngày chiến đấu trên rừng núi cao nguyên , trong tâm trí chưa bao giờ dám nghĩ rằng có ngày mình nhìn thấy sài Gòn . Vậy mà hôm nay tôi đã đứng giữa thành phố với tư thế của một người chiến thắng , thật cám ơn số phận ...

   Chiều 30 tháng tư năm 2002
   Thế là tôi lỡ một cuộc hẹn lớn với anh em đồng ngũ trung đoàn 64. Mà để làm gì cơ  chứ ? để đi kí kết một cái hợp đồng bán ngót trăm tấn sắt gì đó . Nhưng biết làm sao được . “ thương trường là chiến trường “ phải lấy chữ tín làm đầu , không thể để lỡ hẹn với thượng đế của mình được . Rất mong anh em đồng đội lượng thứ . Nhưng buôn gì thì buôn , bán gì thì bán , tôi sẽ không bao giờ quên được những kỉ niệm một đời mới có của những ngày tháng tư năm ấy .

....Buổi chiều , dân Sài Gòn kéo ra đường , vây kín khu vực Dinh Độc Lập . Họ đi xem quân giải phóng , họ đi tìm chồng , tìm con ở cả hai phía . Cái sự tìm người thân ấy còn kéo dài cho tới vài chục năm sau , nhưng nó bắt đầu từ chiều  hôm nay . Tôi cũng không hiểu nổi làm sao dân Sài Gòn chuẩn bị cờ đỏ sao vàng nhanh và nhiều đến thế . Cờ ở trên ban công , trên cánh cửa , nơi công sở và cả trên tay trai gái trên đường . Đêm đầu tiên giải phóng Sài Gòn điện vẫn lung linh sáng và người ta vẫn đi dạo phía vườn hoa .
   
   Mười một giờ đêm , tôi đứng trên sân thượng nhà cố vấn Mỹ góc đường Phan Đình Phùng nhìn ra phía cảng . Tiếng còi tàu tu tu . Bình yên quá . Trời đầy sao , gió từ cửa sông thổi vào mát rượi , thành phố tinh khôi trong màn đêm lung linh như chưa hề có chiến tranh . Trong tôi kí ức về ngày hôm qua còn nóng hổi , nhưng bàn chân thì vẫn râm ran ngứa vì những vết nứt nẻ hành quân . Chúng tôi về thành phố để lại sau lưng bao đồng đội đang lạnh lẽo nơi rừng sâu , nơi đồng vắng . Để lại hàng ngàn ngày đói cơm thiếu thuốc trên cao nguyên . Bỏ lại những cơn sốt rừng tê tái gặm nhấm đời trẻ trai. Để lại những cánh rừng nương rẫy mình đã chai tay vun trồng nên khoai nên sắn . Phút giây huy hoàng này có ai nhớ không những bản làng xa xăm chốn Sa Thầy Pô Cô có những già làng đóng khố nhịn cơm đưa đường năm trước . Ai còn nhớ tới lời hò hẹn quay về nơi đã cưu mang mình, đã vực dậy trong lòng chiến sĩ niềm tin ?
   
     Ngày mai , một ngày mới của tháng 5 năm 1975 . Và dĩ nhiên đêm nay lại thêm một trong hàng ngàn đêm chúng tôi không ngủ . Nhưng là một đêm không ngủ hạnh phúc nhất trong cuộc đời .

Tháng 4- 2002. 

Kí ức Tháng Tư ( Phần 3)


 Nhưng chuyện lạ của ngày hôm nay lại chưa phải là đôi giầy mà là chuyện tôi bỗng nhận được một lá thư . Không thể hiểu vì sao cánh quân bưu lại vẫn nghĩ tới chuyện đưa những lá thư thế này đuổi theo bọn lính ra trận ? Dĩ nhiên là lá thư cũng đến khá chậm . Đó là lá thư của một cô bạn từ miền Bắc . 

Bạn thôi , không phải người yêu người iếc gì . Cô ấy kể về nỗi vất vả của những ngày đi thực tập kĩ sư . Bạn bè cùng lớp họ đã ra trường và đi nhận công việc . Bất giác tôi thấy tủi thân . Bao giờ thì được về , liệu có sống sót mà về hay không , nếu có về thì học hành ra sao ...Đang miên man nghĩ ngợi thì chúng nó gọi sang giảng bản đồ địa hình cho mấy thằng lính mới . Tiểu đội trinh sát vừa được bổ xung hai chú lính Lào cai và cũng chia tay hai thằng “ Hoà chọi “ , “ Nết răng vàng “ xuống bộ binh làm cán bộ trung đội tăng cường cho mũi chủ công c7 . Ngày 19/4 có lệnh nhận bản đồ mới . Mấy thằng tranh nhau tìm đường ngắn nhất vào Sài gòn . Sao có vẻ ngon lành quá vậy ? Nhưng dẫu sao thì cũng chuẩn bị vào trận rồi . Lần này thì Sài gòn sẽ là hướng chính diện . Tối hành quân . Mang khá nặng vì mới được phát thêm bộ quần áo mới . Ai thiếu dép nhận dép , ai thiếu khăn nhận khăn . Thậm chí lại còn cả mũ cối mới bổ xung cho cán bộ . Súng đạn , vũ khí nhiều , có vẻ còn thừa thãi chẳng bù cho các chiến dịch trước đây ? Hôm ấy trăng sáng lắm . Hành quân chừng 4 tiếng thì tới sông sài gòn . Đội hình ùn lại tới 3 giờ sáng mới sang sông . Thuỷ triều đã rút ra xa , cầu phao tụt ra ngoài mép nước khiến bộ đội phải ì ạch lội bùn một đoạn khá dài mới có cầu . Người mệt lử , áo đẫm sương và mồ hôi . Mải miết đi tới sáng thì tới Củ Chi . Lúc sang sông chúng tôi thấy nhiều đơn vị ngủ la liệt ven đường . Họ ngủ ngay trên bùn ướt , thế mà cứ ngáy như sấm , hay thật . Trời sáng dần . Một vùng đồi hoang sỏi đá lau sậy cằn cỗi . Củ Chi đây ư ? Nhìn xuống dưới chân chỉ toàn là mảnh đạn và cát tút . Khắp vùng là hố bom và xác xe tăng hoen rỉ . Tịnh không một bóng người , không một tiếng chim . Chao ôi ! vùng đất đất này không còn gì để gọi là làng mạc được nữa mà là tử địa . Ngày còn ở ngoài Bắc , tôi đã đọc nhiều bài viết về đất thép Củ Chi , được nghe nhiều bài hát ca ngợi con người nơi đây và cả những bài báo người nước ngoài viết về vùng tam giác sắt . Nhưng hôm nay , một sáng tháng tư đẹp trời , đứng trên đất Hố Bò Nhuận Đức tôi mới hiểu thế nào là mảnh đất sắt gang của những con người thép . Họ đã giữ mảnh đất đầu cầu này để cho những sư đoàn chủ lực đứng chân chuẩn bị cho trận quyết chiến cuối cùng . Cái giá trị của hàng ngàn ngày bám trụ mảnh đất này chính là ở chỗ đó .

Mười giờ sáng cả sư đoàn phải ổn định xong chỗ trú quân . Ở đây không có rừng , chỉ còn những chòm cao su xót lại . Đồi đất trọc lúp xúp những vạt cỏ lau . Đơn vị nằm dọc sông Sài gòn . Khoét hầm vào những bờ cỏ ven sông . Những vạt rừng thưa thớt đông nghịt người , ngồn ngộn vũ khí . Nhiều trung đội chui vào trong cỏ , dẹp ra từng cái ổ nằm xuống mà sinh hoạt họp hành . Quân đông như kiến , xen lẫn chủ lực là những đơn vị biệt động . Tưởng biệt động thành ra sao hoá ra toàn các cô cậu học sinh trẻ măng , mười tám đôi mươi. Họ hăm hở và nhiệt tình đến khó tin . Trong số ấy nhiều người từ bỏ cuộc sống vật chất sung sướng nơi phồn hoa đô thị mà dấn thân vào kháng chiến .

   Trong lúc nằm lại khu vực Hố Bò , họp hành , đợi chờ giờ nổ súng thì các đơn vị pháo binh lại nhiều việc . Đào hầm pháo , tải đạn , trinh sát và bắn thăm dò . Từ ngày 24/4 pháo binh bắt đầu bắn cầm chừng vào Đồng Dù , Hóc Môn và Tân Sơn Nhất . Cứ sau mỗi loạt đạn của ta chừng 5 phút sau thì địch lại phản pháo . Suốt ngày đêm đại bác rít qua đầu buốt óc , thỉnh thoảng có loạt rơi gần chỗ trú quân mảnh văng sèo sèo trên đầu . Nhưng mệnh lệnh là tuyệt đối bí mật . Cấm khói lửa , nổ súng , đi lại và bơi ra sông . Dù lệnh trên là như vậy , nhưng 4 năm không được đằm nước bây giờ nằm ngay bờ sông Sài gòn , mấy thằng trinh sát đội lục bình trên đầu bơi ra sông tắm .

   Trời ở đây thật kì lạ . Ngày nắng và nhiều gió nhưng chập tối là đổ mưa . Mưa ngắn mà to . Những cơn mưa không thèm doạ dẫm sấm chớp cũng chẳng cần dây dưa lâu la . Ngạc nhiên nhiều nhất khi thấy phụ nữ không thèm trú mưa . Kệ cho ướt , áo bà ba bó chặt thân người cong ỏng . ướt rồi lại khô , thật đơn giản . Gái Củ Chi cô nào cô nấy chắc như củ khoai sọ . Nước da nâu thật là duyên , tóc gọn gàng bằng cặp ba lá . Hỏi các cô có cần gì không thì các cô nói chỉ thích lựu đạn và dép đúc Trung Quốc . Cô nào cũng khoái dép đúc của chủ lực , vì dép của du kích thường bằng vỏ ô tô đi đau chân lắm . Còn lựu đạn dùng làm gì thì mấy anh rành quá rồi còn gì ?
   Sáng 27/4 có lệnh : Tất cả cán bộ chiến sĩ đều phải khâu một miếng vải trắng trên ngực ghi vào đó phiên hiệu đơn vị . Mỗi chú một mảnh vải đỏ đeo vào tay áo như băng đội trưởng trong đấu bóng đá . Có một yêu cầu khá thú vị đặt ra : trận này tất cả phải mặc quần áo mới , phải quán triệt thái độ đối xử với đồng bào trong thành phố giải phóng . Chiều ấy trong cái nóng nực Củ Chi chúng tôi từng người đăng kí danh hiệu “ Dũng sĩ thành đô trên đất thành đồng “. Trong phương án tác chiến mà trung đoàn phổ biến thì hướng của đơn vị tôi sẽ nhằm tới tận bộ chỉ huy đầu não của nguỵ quyền Sài Gòn . Cán bộ từ trung đội trở lên phải chuẩn bị cờ đỏ sao vàng để sẵn sàng cắm lên các cơ quan đầu não các công sở nguỵ quyền . Cả sáng hôm ấy chộn rộn , hối hả , tôi có cảm giác cứ ngứa râm ran cả người . Trưa , tôi quyết định xuống thăm lại đại đội 7 . Đại đội cũ của tôi nay quá nửa là lính mới . Số lính cũ sứt mẻ sau hơn một tháng trời chiến đấu nhiều quá . Thằng Luật B trưởng lên C trưởng thay Kế lên làm tiểu đoàn trưởng . Thằng Chấn lên chính trị viên phó , chiến sĩ cũ hầu hết trở thành cán bộ cả . Trung đội của tôi nằm quanh mấy bụi tre cụt . Chúng nó đang cắt tóc cho nhau . Thấy tôi đến chúng nó reo lên : nhờ anh Luân giải quyết mấy cái đầu của bọn Cao bằng đi . Thì ra khi vào Chơn Thành có đợt tân binh Cao bằng bổ xung về trung đoàn . Tiểu đội trinh sát cũng có hai chú đó thôi . Cả hai đều là người dân tộc , rất ngoan , dễ thương , nhưng chậm lắm . Tôi rất lo khi vào trận mấy chú này sẽ lớ ngớ hỏng việc hoặc lại phơi ngực hứng đạn thì khổ . Linh cảm ấy có phần đúng . Ba đứa người Cao Bằng được tôi cắt tóc cho hôm ấy chẳng có đứa nào trở về trong trận đánh hôm sau . 
    Chiều xuống , tôi và Sỹ kêu anh Thuỷ chụp ảnh . Tuy không dám nói ra nhưng trong bụng đứa nào cũng nghĩ thầm : Nói dại nếu có chết ngày mai thì còn cái ảnh mà thờ .
   Tôi chợt nhìn lên tường . Bức ảnh tôi chụp chung với Sỹ hôm đó thì vẫn còn , hiện hai đứa đều đem đi mông má , rồi treo lên tường như một thứ “hàng truyền thống “ của gia đình . Nhưng , tôi không dám nhìn lên những bức ảnh chụp chung với bạn bè chiều hôm ấy . Vì , trong số đó có nhiều đứa không về . Nụ cười trên môi họ còn nguyên vẹn đến hôm nay       
   ...Đêm qua và cả sáng nay pháo binh ta bắn dữ dội . Hầu như các đơn vị pháo đều đã vượt sang phía nam sông sài gòn , để sẵn sàng cơ động vào sâu hơn . Kể từ ngày váo chiến trường , đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy pháo ta có vẻ dư dả đạn . Từng loạt đại bác rít soàn soạt qua đầu bộ binh , tiếng nổ trái phá ầm ầm từ phía Đồng Dù vọng lại . Pháo địch cũng bắn trả nhưng không mấy hiệu quả . Trung đoàn đã lệnh bộ binh gói buộc ba lô đợi giờ xuất kích . Suốt ngày 27/4 chú nào cũng chỉ chừa cái võng bên ngoài , còn thì nai nịt gọn gàng . Đêm 27/4 qua đi nặng nề  . Vẫn chưa hành quân ...
Ngày 28/4 , qua làn sóng đài BBC thấy quân ta đã chọc thủng Xuân Lộc đang tiến đánh Biên Hoà , Nước Trong . Cả trung đoàn bồn chồn sôi sục . 5 giờ chiều , vào đúng lúc trung đoàn được lệnh lên đường thì phía Đồng Dù nổ dữ dội . Khói đen bốc lên ngùn ngụt , rồi những tiếng nổ liên hoàn kéo theo . Cách xa 12 cây số mà vẫn thấy ngọn lửa vàng rực một góc trời . Sau này mới biết kho xăng Đồng Dù bị pháo ta thiêu cháy . Bốn năm qua những cuộc hành quân xuất kích đối với chúng tôi không còn mới mẻ gì . Nhưng chiều nay bước chân bồi hồi đến lạ . Đội hình đi xít lại nhau , mặt đứa đi sau gối vào ba lô đứa đi trước .
   
      Bám sát vào nhau , hàng ngàn chiến sĩ lầm lũi tiến về phía Sài Gòn , nơi quầng sáng lung linh một góc trời . Trong lồng ngực có cái gì nghèn nghẹn . Cái cảm giác không giống bất kì một trận đánh nào mà tôi đã trải qua . Mũi tiểu đoàn 8 do tiểu đội tôi dẫn đường vòng phía đông quận lị Củ Chi , vượt qua đường 15 rồi men theo tỉnh lộ 8 vào chiếm lĩnh trận địa Tân Phú Trung . Nhiệm vụ được giao rất nặng nề . Phải đột kích tiêu diệt một tiểu đoàn ở ấp Chợ Tân phú Trung và Cầu Bông ( Bây giờ gọi là cầu An Hạ ) . Lô cốt ấp Chợ cách cầu Bông gần km . Cây cầu dài ba chục mét có 2 đại đội cảnh sát và lính dù chiếm giữ . Điều cốt tử là đánh tan địch nhưng lại phải giữ được cầu , không cho địch nổ khối bộc phá 200kg để huỷ cầu . Nếu cầu Bông bị phá huỷ thì hướng tấn công tây bắc vào Sài gòn coi như thất bại . Đi cùng tiểu đội trinh sát chúng tôi là một cô biệt động còn rất trẻ , có cái tên khá đẹp - Mỹ Hạnh . Sở dĩ cô này được đi với chúng tôi vì cô ta quê Tân Phú Trung . Hạnh chừng 20 tuổi . Vóc người đậm , rắn chắc , da ngăm đen . Nghe gới thiệu cô ta rất giỏi võ . Võ thì chưa biết nhưng bơi lội thì tài . Lúc 9 giờ đêm khi đơn vị lội qua một con mương rộng chừng 15 mét nước quá đầu . Mấy chú tân binh vùng cao không biết bơi nhưng lại không dám kêu vì sợ lộ nên cứ giã gạo giữa dòng . Một mình Mỹ hạnh lôi hai chú vào bờ lại còn mắng cho một trận làm bộ đội Bắc Việt vừa ngượng vừa khoái . Trung đoàn đã đi vượt qua căn cứ Đồng Dù rồi tiến sâu về phía Sài Gòn . Cả trung đoàn lội trên cánh đồng lúa đang kì trổ đòng . Bờ ruộng rất nhỏ . Lính ta ngã ì ụp , vì vậy tốt hơn cả là cứ giữa ruộng mà lội . Mỹ Hạnh luôn mồm than thở thương ruộng lúa nát nhừ vì hàng ngàn bàn chân dẫm đạp . Đêm ấy , những làng mạc vùng ven này không giống như mọi đêm khác . Tiếng lao xao í ới , tiếng chó sủa , tiếng động cơ xe máy xe ô tô chộn rộn . Mọi người đang hồi hộp chờ đợi một điều gì thật lớn lao xảy ra . 
          
       Vào lúc 2 giờ sáng , trăng bỗng sáng hẳn lên . Chúng tôi dẫn bộ binh tới giữa cánh đồng cách chợ Tân phú Trung chừng 2 cây số . Bộ đội nằm lại ngoài đồng chờ trinh sát lên bám địch lại lần nữa ... Trời đã bàng bạc đằng đông , đúng lúc ấy, phía Đồng Dù tấn công thì đồng loạt DKZ, cối 82 , cối 120 ở đồng Tân Phú phát hoả . Ngay loạt DK đầu tiên , 8 khẩu cùng bắn , đồn cảnh sát cầu Bông sập hoàn toàn . Bộ binh D9 và đặc công 198 vận động dưới tầm pháo xông lên đánh cầu . Cho tới bẩy giờ sáng thì cầu Bông đã về tay quân giải phóng . Phía ấp Chợ các lô cốt kiên cố bắn trả dữ dội . Quân ta không tiến lên được . Bộ binh nằm trên đồng trống bị thương vong hơn hai mươi người . Tình hình trở nên căng thẳng . Tiểu đoàn lệnh trinh sát và thông tin xuất kích .Từ phía chợ thằng Thuận ( người Đông Lao ,Hoài Đức ) bị đạn thẳng vào cổ đang bò ra cánh đồng . Tôi châm điếu thuốc Rubi cài vào mồm cho nó rồi bò ra trận địa .Đạn từ ba lô cốt táng dữ dội vào trận địa 12,7 của C16 . Mấy thằng C16 dạt ra . Thằng Khuất Duy Hoan C7 chồm lên , ôm 12, 7 li vừa bắn vừa chửi . Được củng cố tinh thần , thằng Hoà người Cao Bang thị xã phú thọ bật dậy bắn liền 2 phát B41 rồi ôm khẩu trung liên từ tay một liệt sĩ bắn xối xả . Đúng lúc ấy nó trúng đạn , gục xuống bên khẩu trung liên còn nóng bỏng . Đại dội 7 xung phong ra phía chợ , chui vào ngóc ngách nhà dân ném lựu đạn ra đường . Trận đánh giằng dai tới 11 giờ trưa thì có tiếng xe tăng chạy ầm ầm từ phía Củ Chi về Sài Gòn . Bộ binh quay ra bắn xe tăng , ba chiếc bốc cháy đâm sầm vào trường tiểu học Tân Phú . Đúng lúc ấy xe tăng quân ta đuổi tới nơi . Bộ binh ta thấy xe tăng cờ đỏ sướng quá rối rít chỉ lô cốt cho họ bắn . Thế là hàng chục thằng Nguỵ cố thủ trong ba lô cốt trở thành đống thịt nướng . Ngót trăm thằng từ trận địa bên kia đường bấy giờ mới kéo ra hàng . Lúc ấy là 12 giờ trưa ngày 29/4. 
        Không còn đường nào chạy thoát , tàn quân địch chừng ba chục xe tăng thiết giáp không dám lên cầu Bông , bổ nhào xuống đồng lúa Tân phú Trung ngay phía sở chỉ huy tiểu đoàn tôi . Lập tức tiểu đoàn cho c9 đánh thẳng vào cụm xe tăng địch ( c9 hôm ấy đi phối thuộc với D8 ). Trên đường số 1 , pháo ta hạ nòng bắn thẳng . Cả đồng lúa biến thành biển lửa . Sau này vào năm 1988 tôi có quay trở lại đi trên bờ ruộng lúa năm xưa lòng bồi hồi nhớ về vùng lửa khói ngày ấy , cái ngưỡng cửa bình minh của những người sống sót như tôi . Cứ điểm án ngữ cuối cùng của thành phố đã mở thông . Xe tăng , pháo binh , bộ binh của cả sư đoàn 10 , E593, E232, E234 và rất nhiều đơn vị ào ào xông vào thành phố  . Trời oi nồng vì nắng , vì bom , vì lửa . Tiểu đoàn phải để lại hơn ba chục tử sĩ và năm chục thương binh . Các mẹ các chị trong làng đổ ra lo khâm liệm và chôn cất những người hi sinh ngay phía trong chợ Tân Phú Trung . Cho tới đầu những năm 90 họ đã được quy tập về An Nhơn Tây . Trong số những người hi sinh có một người trúng đạn vào phút cuối cùng của trận đánh là trợ lí tham mưu tên Măng người Thái bình . Măng chết lúc đang giương khẩu chống tăng của địch để bắn xe tăng địch .Cũng ở trận địa này , trong Mậu Thân 1968 sư đoàn 9 đã hi sinh hàng chục người mà hồi đó người dân Củ chi đã lập miếu thờ ven đường . Trong miếu thờ đó , ba chiến sĩ C6 của chúng tôi hôm nay cũng nằm lại .
   Mười hai giờ khuya chúng tôi tạt vào làng Tân sơn nhì ngủ lại . Năm giờ sáng đang nấu cơm chưa kịp ăn thì có lệnh : Tất cả mọi đơn vị , bằng mọi giá , bằng mọi phương tiện , xốc thẳng vào Dinh Độc lập . Thế là lao ra đường , chặn xe của dân, huy động cả máy cầy , xe lam,xe đò mạnh đại đội nào đại đội nấy tìm đường đánh vào dinh.

Kí ức Tháng Tư ( Phần 2 )

Hôm nay là ngày 10/4 . Đã nửa đêm rồi mà chưa thấy ai gọi cho mình là thế nào nhỉ ?
     
     Nửa đêm ngày 10/4 năm ấy chúng tôi hành quân tới Đức Lập , một huyện lị phía nam Đak Lak . Xe dừng ở một bãi gỗ . Đèn xe , đèn nhà dân , hàng quán đỏ quạch như một nhà ga thời chiến ngoài Bắc . Tôi tìm được một của hàng tạp hoá hỏi mua một ít rượu trắng . Đưa một ngàn , ông chủ hỏi : Mua cả à ? Mua cả ! Đựng vào đâu ? Làm ơn kiếm dùm tôi cái gì đó ...Cô con gái đưa ra một cái can loại mười lít. Trời ơi ! Ai uống hết ngần này rượu lúc hành quân ? Cả chủ và khách đều cười ồ . Đêm ấy cả xe say ngất ngư 

   Mười hai tháng tư , xe tới một cánh rừng bằng phẳng toàn cây cổ thụ . Những vạt rừng xanh ngắt như đốm vằn trên lưng hổ cao nguyên . Trời nắng to . Đoàn xe ẩn mình dưới tán lá cao vút . Ve kêu râm ran . Có tới hàng ngàn con ve sầu từ trên cao buông những âm thanh như có dây có dợ quấn vào nhau rối mù trong nắng gió . Lũ ve hễ kêu là đái . Nằm ngửa trên võng lấm tấm hạt mưa giữa trưa nắng vàng , thứ mưa của sự bài tiết tí xíu của loài ve . Nằm đó mà không ngủ được , đầu óc cứ ong ong , nghĩ mông lung về chiến dịch xắp tới . Sẽ là những trận đánh nhớ đời , nhất định rồi , nhưng đã phải là những trận đánh cuối cùng chưa thì chưa ai dám chắc ?
   Chiều tối hôm đó chúng tôi dừng chân ở Bù Đốp . Đây còn gọi là thủ đô của vùng giải phóng . các cơ quan làm việc trong rừng nhưng chế độ giống như ngoài Bắc . Dân ở đây hầu hết là người dân tộc . Cũng có trường cấp 1,2 mà giáo viên toàn là thầy cô giáo dậy giỏi đưa từ ngoài Bắc vào . Thật không thể tưởng tượng , sống ở đó có một đêm mà quên mất mình đang trên đường chiến đấu . Tôi và Ngô Thịnh vào một lớp học , hai đứa thay nhau đứa làm trò đứa làm thầy ngồi trước bảng đen cho đỡ nhớ trường lớp sau bốn năm xa cách . Trưa hôm sau xe tới ngã ba Lộc Tấn . Một cánh rừng cao su rộng mênh mông chứa tới cả ngàn xe ô tô , pháo lớn , xe tăng tụ hội . Đây mới thật là thần thái của câu thơ “ đường ra trận vui như trẩy hội “ , của nhà thơ nào nhỉ ? Không nhớ nữa , hoặc giả chẳng phải là một câu thơ cũng nên !

   Mười giờ trưa có lệnh gọi tôi quay về C7 để làm lễ kết nạp đảng viên . Hôm ấy có bốn đứa được vào đảng . Cờ đảng bé tí xíu được cài vào thân cây cao su . Mọi người ngồi dưới cỏ , bí thư chi bộ và những người được tuyên bố kết nạp thì đứng . Lễ kết nạp chỉ diễn ra chừng hai mươi phút rồi ai lại vào việc nấy . Giờ phút thiêng liêng của đời người chiến sĩ Cộng sản chỉ có thế thôi sao ? Đang trên đường vào trận , vẽ vời mà làm gì  ? Khi đứng trước Đảng kỳ , nhìn những người bạn cùng vào sinh ra tử đang sánh vai cùng mình , lại nghĩ về những đứa đã nằm lại đâu đó trên cao nguyên mà Đảng chưa kịp ghi tên họ vào đội ngũ , mặc dù họ rất xứng đáng là những đảng viên , tôi biết từ nay mình sẽ phải sống xứng đáng hơn với họ ...

   Hôm ấy nhằm ngày 14/4/1975. Một ngày tháng tư đẹp nhất cuộc đời của mình , quên làm sao được ? Tôi lật tờ lịch trên bàn làm việc , không thấy có cuộc hẹn nào với bạn bè . Chúng nó không thèm nhớ gì tới cái ngày tháng tư đẹp nhất của đời mình hay sao ? Thế thì tệ thật . Đã vậy thì ...đến lượt mình phải nhắc . Tôi nghĩ vậy và vội vàng cầm máy bấm liền hơn chục số điện thoại để tổ chức một buổi gặp mặt . Thời đại thông tin , cũng hay thật . Muốn gặp nhau chỉ cần bấm máy rồi tìm một kẽ hở thời gian ...

   
 Mờ sáng 15/4 /1975 xe dừng trong một khu rừng rậm nhưng cây cối chỉ bốn ,  năm mét . Lệnh hành quân bộ khẩn cấp để xe ô tô quay lại trước khi trời sáng rõ . Bộ đội hành quân không kịp dàn đội hình , cứ bám nhau đi như ma đuổi . Tôi chạy vượt lên đầu để cùng tham mưu trưởng dẫn đường . Lúc 7 giờ sáng gặp một đơn vị pháo binh 130 mới từ Bắc vào trông khí thế lắm , nhưng mất trật tự kinh khủng . Xe pháo chềnh ềnh giữa đường không thèm nguỵ trang. Lính tráng thì nằm ngồi ngổn ngang , lại còn lừng phừng đàn ghi ta nữa mới bỏ mẹ . Tôi túm lấy một tay trông có vẻ cán bộ nói : “ ông nguỵ trang cho pháo đi , và cho lính tản ra , L19 nó đang soi trên đầu kia kìa “ . Tay cán bộ khinh khỉnh . Kinh nghiệm cho hay phải tránh xa cái tụi lính ngố này ngay . Tôi vội bàn với anh Tuần ra lệnh : Tiểu đoàn 8 vận động ! Thế là cả tiểu đoàn chạy thục mạng . Mới được hơn cây số đã nghe tiếng sèo sèo bụp , chết bỏ mẹ rồi - đạn khói . Bộ đội dạt vào rừng , chỉ năm pút sau pháo địch cấp tập giót ngay vào khu rừng mới đi qua ... cánh pháo binh ăn đủ rồi . Đúng lúc ấy gặp thằng Viên và thằng Tiến Us đi trước ra đón . Ba thằng quăng ba lô lao vào rừng , chúi mặt trên đất . Đại bác nổ inh tai . Cành cây rơi đè lên người . Nằm không ngóc đầu lên được . Thằng nào cũng tưởng chết đến nơi . Nửa tiếng sau , chúng nó mới ngớt bắn . 
   Từ trong đám cây đổ nát đặc quánh khói đạn chui ra , cả khu rừng lúc trước xanh um bây giờ trơ trụi . Cây cối như bị cầm cưa mà cắt ngang lưng . Một vài chiếc xe kéo pháo cháy nghi ngút ... Cánh lính pháo binh bị thương khá nhiều . Tôi móc được ba lô xách súng nhằm phía rừng còn xanh mà chạy . Ra đến đoạn suối rộng thấy ngót một tiểu đội khoả thân chạy như bị trâu càn . Hoá ra tụi công binh 17 đến từ đêm , đào hầm cho Ebộ xong ra suối tắm thì gặp pháo kích . Không chú nào còn quần áo cứ thật thà mà chạy về đơn vị . May mắn nhất là anh chàng Hộ ( người Lâm Thao ) còn kịp nhặt cái xoong quân dụng úp vào bộ hạ chạy về tới kiềng vẫn líu cả lưỡi.
 Ai bảo đường ra trận vui như trẩy hội nữa đi ? Coi thường địch bao nhiêu cũng phải trả giá thôi !
 Nơi đóng quân hôm nay là kiềng cũ của sư đoàn 9 chủ lực miền . Khi chiến dịch Tây nguyên nổ ra họ cũng đã lật cánhđâu về mạn miền Đông  . Chắc họ bám trụ ở đây cũng lâu , vườn rau vẫn còn tươi tốt lắm . Cà ớt rau dền nhiều vô kể . Hầm hố còn kiên cố và sạch sẽ , nhưng nước nôi thì khan hiếm . Ở đây họ dùng nước giếng . Có những cái giếng sâu tới 4, 5 mét đào theo kiểu miền bắc , kéo bằng cần vọt . Tối đến pháo lại bắn dữ dội ngoài trảng rừng lúc sáng . Kệ mẹ nó , bây giờ thì tha hồ cho mày bắn . Họp tiểu đội xong mắc võng đánh một giấc , nhưng tôi trằn trọc mãi không ngủ được . Tụi nó tán phét tới khuya thì mưa to . Đúng lúc ấy có lệnh đi lấy gạo . đường thì tối om lại không thuộc  địa hình ngã lên ngã xuống tới gần sáng mới về , ướt như chuột lụt . Líh tây ngyên dù lâu nay không còn bị đói nữa nhưng thấy gạo mắt cứ sáng lấp lánh quên cả mệt . Lạ thay đêm đó tôi chỉ nằm mơ toàn thấy gạo là gạo ...                                                                                                                  *      *
Ngày 16/4 . Không những có điện thoại mà buổi chiều lại còn cả một cuộc nhậu nữa . Có một thằng nào đó vừa được nhận tiền truy lĩnh thương tật ( đến tận bây giờ mới chịu đi làm thẻ thương binh thì vĩ đại thật )nên mấy thằng trong nhóm thông tin trinh sát tiểu đoàn hẹn gặp nhau ở quán bia , chưa kịp đổ cốc nào vào họng bọn nó đã bắt đầu tranh nhau “ hồi kí “ về những ngày cuối cùng của tháng tư lịch sử ấy...


...Hôm đó trời nắng như lửa . nắng lổ đổ những đốm sáng trong rừng . May mà lá rừng dầy đặc nên cũng đỡ . Lúc 2 giờ chiều tôi mò ra ngoài xa gặp một bãi cà pháo , đang mê mải hái cà thì OV10 lượn vè vè trên đầu . Vơ vội cành lá úp lên đầu bò về . Lát sau 4 chiếc T28 tới ném bom . Hoá ra tụi nó ném bom vào chỗ lấy gạo đêm qua . Nhưng gạo thì lính đã khuân hết rồi . Thật uổng công , chúng chỉ đốt được mấy cái nhà kho trống rỗng . Thảo nào đêm qua tôi mơ thấy toàn gạo . Nhặt được trong hầm cũ một đôi giầy cao cổ Trung quốc mới tinh . Chỉ có lính mới từ Bắc vào mới có hành động “ bất kính “ như thế này với giầy dép . Tôi lập tức quyết định thanh lí đôi giầy cũ nát của mình và cho phép đôi giầy mới này được hưởng vinh dự tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và được nện gót trên đường phố Sài gòn trong những ngày mới giải phóng .

    (còn tiếp )




Hai tổ chốt

                                                                 
     Tặng các đồng đội chiến đấu nơi BGTN một thời 


Tặng các đồng đội chiến đấu nơi BGTN một thời 


Ở  hai đầu đất nước 
Giống hai chốt ngày nào 
Nhớ quá thì nổ súng 
Để biết tin về nhau 

Chốt bên này của anh 
Mấy tuần không được tắm 
Chốt bên ấy của ai 
Nước mấy tuần một  bận ?

Nghe súng bên ấy nổ 
Tiếng ngân dài mà êm 
Súng bên này mà nổ 
Đoành đoành nghe inh om

Rồi một ngày vắng hoe 
Không thấy Ak nổ  
Chốt bạn đi về đâu ?
Để chốt tôi buồn thế 

Chiến trường nơi xứ lạ 
Rồi đến ngày lặng yên 
Chúng tôi về thành phố 
Nhớ mịt mùng Cao Miên 

Tôi nhớ ngày trên chốt 
Nổ súng để gọi nhau 
Giờ mới hay con gái 
Ở chốt bên ngày nào  

Tôi hứng lạnh miền bắc 
Bạn tắm nắng phương nam 
Nhớ nhau vào quân sử 
Lại bồi hồi đêm đêm 


Hà Nội tháng 3/2012
          


TRỞ LẠI CHARLIE( Phần 4 )


4. Nắng và gió 1015


Xe tôi leo lên chừng 30 phút. Đường dốc ngược, tôi bám vào tay nắm xe Uoats đu người lúc lên, tôi đạp chân đứng dậy lúc xuống dốc. Chân tôi “đạp phanh” bên phụ đến tê dại cả người. Chú lái xe bặm môi, mỗi khi nhả cầu cài thì khói lại bốc lên mù mịt. Cành cây , hoa lau va vào cửa kính hệt như hành quân trên Trường Sơn năm nào. Lâu lắm tôi lại ngồi xe mà hít cái mùi khói xăng khét lẹt. Đã lên đến bình độ mà dân địa phương không thể làm nương được nữa, con đường toe toét đất đỏ và tôi đã nhìn thấy những bụi le khô rang, vài cây Kơ Nia độc thân đứng chênh chao trên dốc. Lúc này đã là 9 giờ sáng, xe lọt vào một cánh rừng thông non và tiếng ve bùng lên. Tôi bảo chú lái dừng lại, bước xuống xe . Người tôi như nghẹn lại rồi ngực bỗng như nở ra. Tiếng ve Tây Nguyên mà hơn 40 năm nay tôi mới lại thấy. Nó ríu rít, nó quay tít mù nỗi niềm gì đó chả thể cắt nghĩa. Ve cứ ào ào trên đầu. Ai đang vui thì cảm giác ve kêu tung hô niềm vui. Ai đang nhớ thì tiếng ve day dứt như đào sâu vào nỗi nhớ. Ai đang buồn thì tiếng ve ra rả râm ri như cứa vào nỗi buồn, khiến ta buồn thêm. Với tôi, tiếng ve 1015 là nỗi nhớ, là nỗi buồn, là ngày gặp mặt với anh em thân thiết của mình. Nhớ, buồn, vui là tiếng ve 1015. Tôi nghe như có tiếng gọi tên tôi, tôi nghe như có tiếng khóc của những đồng đội mới 18 tuổi, tôi nghe có tiếng gọi con của các anh chỉ huy tiểu đoàn, đại đội. Tiếng gọi mang giọng nói khu 4, khu 3, cả những tiếng Tày, Nùng, Mường, Mán …phía Bắc. Bỗng trong chập chùng tiếng ve Charlie kêu, máy điện thoại tôi đổ chuông.” Luân đã lên 1015 chưa?” Ra là trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến đang họp ở BTL quân đoàn 3 gọi cho tôi. Vâng thủ trưởng ơi em sắp lên đến mỏm 1. Dốc lắm, khó đi lắm ..


“ Luân ơi, cậu thắp hương, nhớ nói tên tớ khấn anh em…tớ là Khuất Duy Tiến, xin lỗi anh em, biết ơn anh em 64, tớ yếu quá không lên được với anh em, xin anh em tha lỗi.” .Tôi biết cụ già lại khóc rồi. Tiếng ve bỗng ngừng bặt. Hình như tiếng ve là tiếng 400 tử sĩ đang tâm sự thì phải, họ đang ngừng lại để nghe tiếng gọi của người chỉ huy của mình. Nắng chan hòa. Gió ngằn ngặt. Gió chạy từ đông sang tây. Gió thổi từ phía biển ào qua 1015 va vào dẫy Ngọc Rinh Rua, tràn qua Chư Mom Ray sang ngã ba Đông Dương. Nắng và Gió Tây Nguyên như ngưng đọng nơi này, một sáng cuối mùa khô như một sáng 43 năm trước, đồng đội tôi ngã xuống....( còn tiếp)


Nơi này là điểm bắt đầu vượt suối để tiến vào 1015. Nơi này cũng là tọa độ B52 ngăn chặn trung đoàn những ngày 10,11/4/72 gây nhiều thương vong cho bộ đội ta vào chiếm lĩnh



Thắp nhang mộ anh Hiệp D trưởng lúc 7 giờ rưỡi sáng 25/3 trước khi leo lên 1015

Tháng Ba


Sao cứ phải tháng Ba 
Để cho ta phải nhớ ?
Sao cứ phải tháng Ba
Hoa Pơ Lang nở đỏ ?
Để ta thương hoa nhãn nức vườn nhà 

Sao cứ phải tháng
Ba ta nhớ em ?
Có một ngày mồng tám 
Có ngày đồng đội tôi ngã xuống trên cao nguyên
Tháng Ba không có tên 
Trong bao nhiêu mộ chí ?
Tháng Ba có bao nhiêu nước mắt chảy dọc sông Ba 
Lại những đốm Pơ Lang thắp suốt cánh rừng già .

Hoa cứ rung rinh trong mưa xuân 
Nắng  ươm mật trên mặt đất 
Tháng Ba cứ như lâm râm cơn sốt 
Đồng đội cắn răng hành quân 

Con ong đi lấy mật chòng chành trên con đường chúng tôi đuổi giặc 
Cánh ong rừng cũng ngập ngừng 
Suối Tây Nguyên cũng ngập ngừng ... óc ách 
Tháng Ba trôi như nỗi lòng 
Chúng tôi trôi về vườn quê mình dở mưa dở nắng 

Sao cứ lại tháng
Ba để nhớ 
Bạn tôi nằm trên đường băng sân bay Hoà Bình 
Bạn tôi gục dưới bóng Kơ Nia Cẩm Ga ,Thuần Mẫn 
Bạn tôi uống nước Cheo Reo suốt mấy chục năm vẫn khát 
Giếng nước đầu làng 
Bạn tôi về đâu mảnh đạn nhói thân mình 
Tháng Ba trở giời  đau như búa bổ
Tựa vào vai vợ 
Vẫn lẩm bẩm nhớ về “... chúng nó...” 
Tìm được hài cốt hay chưa 

Tháng
Ba ơi , tháng ba của ngày xưa 
Tháng Ba này , Hà Nội vẫn đang là mùa cưới 


Ngày cuối tháng Ba năm 2012

Nhật ký tháng 3/1975



Hôm nay , ngồi nhìn những dòng nhật kí ngắn  ngủi về những ngày tháng ba năm 1975 . Những ngày mà cách đây đã 37 năm , thế mà nó cứ hiện về rõ mồn một . Muốn viết thật vui thật hóm hỉnh về chuyện sống chết mà lại cứ đưa mình về cái mạch xuy nghĩ khác , tệ thế . Mình đa cảm ngay từ xưa bé nhỏ , cái gì nhớ thì day dứt , cái gì yêu thì đến đớn đau . 

Mới ngẫm lời xưa kẻ đa đoan thì đừng kêu ca sướng khổ . Muốn thăng tiến thì đừng đa đoan , biết dẫm đạp cũng là sự tích cực . 
Mà thôi , mình kể chuyện ở đây là với bạn bè chiến đấu thôi cơ mà . Xin kể :
Cai ngày 28/3/75 trong nhât kí có vẻn vẹn một dòng . Nhưng sự thật thì không phải . Nó dài lắm , dài đến tận bây giờ .

Tôi trích nhật kí " 28/3/75 . hành quân tới ven một bãi lầy Phú yên . ở đây dọc sông máng , bộ đội địa phương đánh một đoàn xe - hành quân đêm trên bờ máng đầu tiên . nghỉ lại đây một ngày ."


Gọi là hành quân thực ra chỉ có nhóm đi bám địch trước chúng tôi thôi , còn đơn vị vẫn ở đằng sau . Khi chúng tôi đánh địch trên Củng Sơn Phú Túc thì có một đoàn xe đã vượt qua rồi . Về tới khúc sông máng , đường 5 này thì gặp bộ đội Phú Yên chặn đánh . Việc đó đã diến ra ngày hôm trước . Phía xa , làng mạc miền nam đầy những vườn dừa , những đồng lúa xanh ngút ngát , chiều nắng vàng sau lưng , chúng tôi hít căng lồng ngực cái hương đồng miền nam mà xưa nay vẫn hát "...Miền nam em dừa nhiều , miền nam em dứa nhiều .."

Không có quân địch , không thấy có súng nổ , chiều hôm ấy thật lạ . 5 thằng chúng tôi ngồi trên mép sông máng , dưới chân là đồng lúa xanh mượt mà . Bỗng từ dưới ruộng có tiếng  động , nhỏm dậy ! bờ ruộng bùng nhùng , thằng Luật nổ mấy viên đạn lên tròi . ( may thế , nó không bắn xuống ruộng ) Từ dưới bùn rùng rùng đứng dậy một chú lính ngụy , người bê bết bùn nước , tay xách cái làn nhựa đỏ lót kín bằng những mảnh ni lông , run rẩy : Thưa ông , con xin các ông ...

Chúng tôi nhào xuống bờ ruộng . Nhìn vào cái làn đỏ trước tiên vì nghi đó là vũ khí . Không .. Không có vũ khí nào hết mà là : một hài nhi , hai tay hươ hươ mắt ti hí ... Người lính xụp xuống ..Thưa các ông con đưa vợ con chạy từ quân khu 2 , vợ con ngang đường sổ dạ rồi chết luôn . Các ông có bắt con xin các ông làm phước cho con gửi đứa bé này ...cho nó làm... làm ...người .


Người lính VNCH gục đầu nức nở . Năm  đứa tôi nhìn nhau ,  rồi vội nhìn đi chỗ khác , bởi vì chả thằng nào muốn thằng kia nhìn thấy mình khóc . Có tiếng đạn pháo vút qua đầu , người lính ngụy ôm chặt cái làn đỏ vào ngực : ới  con ơi !

 Chúng tôi cũng xà xuống che người xung quanh cái làn nhựa loe hoe những mảnh vải vụng về , và tiếng cựa quậy của đứa trẻ lọt lòng . 

     Thằng Luật là đứa cục cằn nhất lên tiếng : thằng Luân chữ đẹp viết một tờ giấy chứng nhận quân giải phóng đã đồng ý cho anh này gửi đứa bé vào địa phương đi . Làm nhanh kẻo du kích họ lại không tin . Còn thằng nào có cái gì đưa ra . 

Chúng tôi ngó vào trong làn nhựa ở đó có hai hộp sữa rồi , bây giờ chúng tôi mỗi đứa đưa ra một hộp nữa , tôi có mấy tờ tiền Trần Hưng Đạo đưa ra cho người lính , thế là chúng nó bắt chước moi hết tiền ra cho người bố tội nghiệp kia . 

NGười lính ngụy ngồi đờ đẫn cám ơn , chúng tôi dục : thôi đi ngay vào làng đi , anh không nuôi được cháu đâu , gửi dân họ nuôi thôi . Chúng tôi cảnh giới cho mà đi ... Tôi nhìn người lính xách cái làn đi qua cánh đồng vào làng trong hoàng hôn , bước cao bước thấp cho tới khi người lính khuất sau vườn dừa yên ắng rồi chúng tôi mới hành quân .
 Chiến tranh lùi lại phía sau còn kí ức thì lại nhao về phía trước mắt những người già . 


Ba mươi bẩy năm rồi . Người lính ngụy ấy còn sống ở đâu ? anh có tìm về Một làng ven con sông máng đường 5 Phú Yên tìm đứa con gái     tội nghiệp của anh không ?


Ba mươi bẩy năm rồi , cháu bé khốn khổ ấy còn sống ở đâu ? Trong hàng đêm ngần ấy năm trời tôi luôn cầu mong cháu sống và làm người nhân hậu . 


Tôi cũng đã già , cũng đã trở lại con đường máu lửa ngày ây , tôi cũng đã từng ngồi khóc khi xem chương trình kí ức đường 7 của Thu Uyên , bởi hơn ai hết chúng tôi là người chứng kiến tận mắt những mảnh đời bất hạnh vì chiến tranh .

Nhật ký đánh địch trên đường 7 tháng 3//1975


Hôm nay là 23/3 

Cuốn nhật kí của tôi đã nhàu nát vì thời gian , vì nước mưa và mồ hôi , thời đó tôi viết chữ nhỏ và xấu vì viết vội , viết tắt trên đường đuổi giặc lại viết vào lúc dừng chân vẫn đì đùng bom đạn nên bây giờ nhiều chỗ dịch mãi mới ra . Tôi sẽ phải dịch lại chính chữ của mình vậy 

Trong đời bộ đội của mình tôi đã ghi 3 cuốn nhật kí . Một cuốn từ năm 72 tới năm 74 . ( cuốn này mang về được và ghi rất đầy đủ , nhưng khi tá túc nhà vợ trên Bưởi , bà già vợ bán hàng khô nên cứ xé dần gói lạc bán lẻ , khi phát hiện ra thì chỉ còn cái bìa . Đứt ruột vì tiếc  mà biết kêu ai ? )

Cuốn thứ hai viết sổ nhỏ hơn từ tháng 10 /74 tới tháng 2/75 . Lúc vào chiến dịch gửi một anh giáo viên làm vệ binh ở Ebộ , sợ rằng mình chết , ai dè anh ấy bị pháo kích cháy xe ô tô và cuốn ấy của mình cũng cháy theo xe .

Cuốn thứ ba viết từ tối 25/3. Đây là cuốn sổ lấy trong cái xe tăng bị bắt sống , còn cả tên trưởng xa , số đăng bộ , số súng  
Những sự kiện ngày 23,24/3 là viết lại khi nhặt được cuốn sổ này vào ngày hôm sau .

... chiến dịch diễn ra bắt đầu từ 8/3 bây giờ không còn nhớ là đã đi và đuổi địch bao nhiêu km nữa 
Ngày 24/3/75 

Bắt đầu sáng đã lạc đường . Cả đại đội phải nằm lại trong bãi cỏ tranh chờ sáng hẳn . Thì ra cách tiểu đoàn có một đoạn chừng gần cây số . Về tới tiểu đoàn ra phục đường ngay . Đào hầm toát mồ hôi mà không được ăn cơm không nuốt nổi vì không cón thức ăn , khát nước kinh khủng cả tiểu đội chia nhau nửa bi đông nước . 10 giờ trưa đang ngủ gật thiu thiu thì nghe tiếng xe chạy ., không hiểu sao không có lệnh đánh . Mình vác B40 chạy ra đường . Súng đã nổ . Chậm quá 4-5 xe tăng vượt qua . B41 của Độ ( Thường tín ) nổ . B40 của thằng Coóng cao bằng nổ . Mình bắn chiếc xe ấy cuối cùng sau chúng nó . cụm lửa bùng lên , xe khựng lại chừng 5 giây rồi lại chạy . (Trên xe chất đầy bao gạo , bao cát .) 3 thằng lính trên xe rơi xuống . Luật bắn chết ngay . còn một thằng sĩ quan chết không kịp ngáp . Thực ra 3 thằng rơi xuống cũng đã chết . ..Quay về súng hai bên nổ mạnh Tiểu đội lạc mất hai đứa Mão lùn Thái bình hi sinh . ( đạn 12,8 li vào đầu . tìm hai thằng lạc không thấy , địch chạy dạt xuống sông , bắn thêm phát b40 vào nương ngô dưói sông , thấy kêu la .
Thằng Mật ( Tây Đằng ) bắn cháy cái M48 đạn trong xe vẫn nổ ầm ầm . Mình và Đàm B phó + Coóng truy kích bám địch tiếp . Xe đổ ngổn ngang dọc đường . Máy bay địch bay thấp hàng chục chiếc phía ngầm gần 3km thì tới bờ sông . Đại đội 7 đang vận động theo sau . Cách địch 200 mét gặp bãi trống không che đỡ thì mình mới phát hiện ra xe tăng địch vội vẫy cho đại đội lùi lại thì địch cũng phát hiện ra mình 12,8li bắn ngay . Mình nằm rạp trên bãi trống pháo tăng bắn mạnh quá nhưng qua đầu , chưa bao gặp trường hợp ác liệt kiểu này . Bộ binh năm trên bãi không ngóc đầu lên được , 12,7 li thì không vận động lên kịp , cối thì hết đạn  . Nguy cấp . Mình nằm gần địch nhất . Đã nghĩ đến lúc địch phản xung phong . Mình lắp liều phóng hai quả B40 và liều lao lên cứ 10 m lại nằm , cố tìm cách bắn xe tăng . Thấy mình lao lên Thằng Hoà bắn B41 người thị xã Phú thọ cũng vọt lên , b2 rồi B3 cũng lên mình chỉ cho họ chạy vòng bên phải mình vượt thẳng bãi trống xuống sông . Xe tăng địch đang sang sông nhìn thấy lại bắn tơi tấp . mình và Đàm nằm lăn lại nhau . Đàm bảo mày ướt thế bị rồi , sờ khắp người không thấy gì . May. Ngớt súng mình lại lao về phía 2 xe tăng . địch lại bắn . Mình lộn trở lại một gốc đa to . Địch nhằm gốc đa bắn thêm một giờ nữa . hút xong 3 điếu thuốc trong gốc đa thì trận đánh quá ư không hay ho kết thúc - Hú hồn . địch thoát sang sông . Quay về gặp B thì trời tối . Quay lại chốt trận địa ở bờ sông Ba đào hầm xong 12 gìơ đêm vượt sông vây bắt 2 xe tăng , xong trải võng trên bãi cát nằm chưa kịp ngủ lại vượt sông trở về trận địa hôm qua thì - trời sáng 

25/3/1975
mới 5 giờ sáng thé là cả đêm không ngủ , B nấu cơm sau bụi tre ăn chưa hết bát cơm thì có lệnh xuất kích đánh địch . Bọn này đưa cả gia đình chạy bằng xe hầu hết từ Pơ lây cu đông có tới 300, 400 xe . Đánh bắt hầu hết . súng ống ném xuống sông rồi thu đồ quân trang nhiều vô kể . Chưa bao giờ mình thấy một cảnh đau thương như thế hôm nay . Bọn trẻ con có lẽ chết mất . Nắng quá . mà hôm nay mình thực sự thấy nhiều " Hoa " nhất . 2 giờ chiều lại lên ba lô vượt sông đuổi địch .Mồ hôi đổ ra như tắm , mệt ghê quá . buồn ngủ nữa . Đoạn sông này nước chỉ sâu đến ngực toàn sỏi . Rộng chừng 400 m . Hàng ngàn người bà già trẻ con lội ào ào . Khổ quá . mình đeo một ba lô thuốc lá , một gùi đạn . ướt hết . gặp Dương ( cùng trường ) ở bờ phía nam nó cũng đang đuổi địch với D9 . đưa chó nó hai tút thuốc . Chiến dịch đã mở chừng gần hai mươi ngày nay gặp nhau chỉ nhìn thấy toàn răng với mắt . Đã có đến 10 mấy đêm không ngủ chân đã đi hàng mấy trăm cây số .

26/3/1975 

Đêm qua dừng lại ở một khu rừng phía nam ngầm đánh quận lị Củng sơn . Tàn binh địch vẫn chạy về khu này . Trăng sáng . Mệt . Pha cà phê , pha trà , pha sữa , ăn thoải mái .
- nắng . 
Rừng tranh khô càng nóng .
Đào hầm không thể đào được .phải xếp đá !
Trưa nắng qquá , rơi cái mũ đi tìm mũ thì gặp một thằng nguỵ cách mình 10 mét . 2 thằng đều tay không . Mình hét lên nó bỏ chạy mất 
Chiều hành quân nhằm hướng Tuy Hoà

27/3/75 
Nghỉ lại ở một khu rừng cách ngầm Củng Sơn chừng 8 km .Mệt vô cùng . Trung đội nhiều người đau bụng quá . May mắn ăn xong được ngủ yên 3 giờ đồng hồ . dậy lúc 3 giờ chiều . Hành quân ngay . mỏi mệt vô cùng .

28/3/75 Hành quân tới ven một bãi lầy Phú yên . Ở đây dọc sông máng bbộ đội địa phương đánh một đoàn xe - hành quân đêm trên bờ máng . Lần đầu tiên được nghỉ chọn ở đây một ngày . 

30/3/75 Đêm qua toàn lội lầy , mệt vô cùng - rét . 
Có lệnh mình lên trinh sát tiểu đoàn . Không muốn đi vì nhiều lí do . Nhưng đến chiều cũng phải đi . Tạm biệt trung đội 3 .

31/3/1975 
Đêm qua mình và Minh Hòn gai dẫn c5, c8 vào chiếm lĩnh đánh chặn địch từ Tuy Hoà chạy theo đường 1 xuống . 
Bây giờ đang ngồi quan sát . Rất nhiều xe địch chạy xuôi. lẫn rất nhiều xe dân . Không nổ súng được . Nhìn sang đường 1 c6 và c7 chưa thấy ra . Có một chốt địch có một khẩu cối 81 và cả đại liên cứ chốc lại bắn sang chỗ mình . thôi viết đến đây thôi mai viết tiếp vì súng nổ nhiều quá .

( đoạn viết của ngày hôm sau ): 
Chiều tối 30/3 bắt đầu nhận nhiệm vụ : Luân + Minh dẫn C5, C8 ra bố trí ở khe núi Giục Kinh gần đường tàu hoả . Lội ruộng lầy . Rồi vượt đường 1đến nơi 11 giờ đêm Chiếm lĩnh xong gần 1 giờ .Muỗi nhiều vô kể không chịu được ( đi hướng này là anh Lương Minh Khoa D phó - quyền D trưởng )
- Sáng xe chạy rất đông , lẫn cả dân nhưung sao không thấy C6 nổ súng vì nó bố trí sát đường cơ mà . Bắt liên lạc thì nó không tụt xuống được núi đá hiểm trở quá . Tổ chốt của địch bắn sang nhiều trúng một khẩu đội 12,7 của c8 1 hi sinh và 3 bị thg . gần trưa thấy c6 nổ súng bộ đội tràn ra đường mình nhìn ống nhòm thấy mấy bộ đội bị đạn . Địch bu lại bắn và đâm nát họ trên đường . Các khẩu đội của c8 và bộ binh c5 buộc nổ súng cả vào xe địch và xe dân . Địch cho cả xe tăng thiết giáp chạy xen kẽ vừa chạy vừa bắn , lại thêm người thưong vong . Trời tối , tiểu đoàn đưa bộ đội bỏ núi áp ra đường gần hơn . Trong đêm địch không dám chạy nữa . Phía Tuy hoà vẫn nổ pháo . Đại bác ta bắn ra tận bờ biển , pháo biển cung bắn vào thì thùng như giã gạo cả đêm .