Đêm ta chẳng nằm mơ thấy phố
Ta chỉ nằm mơ thấy làng . Giấc mơ con con như thế Mà cũng muộn màng Cánh chuồn bay mặt ruộng Lá nhãn rơi mùa đông Ô ăn quan ven đường Đáo , quay, khăng băm lở sân đình Sợi rơm khô từ chuồng trâu thơm vào ổ Thơm rưng rưng đến tận bây giờ Đêm chỉ nằm mơ thấy làng - Mấy chục năm sao không thấy ? Chẳng phồn thực ở chốn phồn hoa vợ con nheo nhóc cái gì cũng xếp hàng Chỉ có giấc mơ không cần xếp hàng thì lại rất xa Ta ngủ đêm ở phố Ta mơ thấy làng Ta trở về thật là ta không hề mộng mị Ta của ta ơi ! Cả đời ta chỉ cầm súng có vài năm Còn bao nhiêu ta mang ra thi thố với phố và đồng chí Bao nhiêu người xa ta bao nhiêu người lại gần ta Chỉ có đêm súng nổ ở cao nguyên là lại thấy rất gần Những cái tên về nức nở từ cõi âm Gọi câu mày tao nhoáng rồi mất hút Mở mắt ra thấy làng và đồng xanh ngút ngát Bạn ta đi mất rồi Ta gọi tên một thời những cái tên đổ ập xuống chiều hành quân màu lửa Tên làng , tên những con sông Những bia mộ dinh về làng đặt ở nghĩa trang - mờ mờ hương với khói Nghĩa trang ở phố không thiêng như ở quê dù quê làng vẫn đói Chỉ có làng quê neo đậu với tận cùng Ngày mai tôi đi họp ban liên lạc sư đoàn Đêm nay lại nằm mơ thấy đồng đội và thấy làng rất cũ HN 13/9/2013 |
Sunday, May 31, 2015
Nằm mơ làng
Lời ru
Ngẫm đời chỉ một lời ru
Ru con ngủ ru tình xa đợi chờ
Ru hồn chinh phụ mịt mù
Ru người xưa nhớ con đò bến sông
Ru cho hung hãn mềm lòng
Ru đừng mộng mị quên đường mưu sinh
Ru từ tiếng trống sân đình
Lời ru nước mắt cũng thành mồ hôi
Khúc ru nào có trầu vôi
Khúc nào của mẹ khúc người tri âm
Lời ru có từ ngàn năm
Mà nghe như chỉ thì thầm đâu đây
Ru như tỉnh ru như ngây
Ru thời điện tử có say bao giờ
Bao giờ lại đến ngày xưa
Để nghe em gọi đi về xa xăm
Tôi xa quê mấy chục năm
Tiếng ru quanh quẩn tre làng nhà tôi
Một thời súng đạn quanh người
Lời ru vực bước một thời Trường Sơn
Trường Sơn đá núi cũng mòn
Thế mà tôi vẫn chưa tròn lời ru
Gửi mưa
Phương Nam mưa nhiều thế
Mà Hồ Tây còn mưa ?
Ai ? người xa Hà Nội
Nhớ không ? Hồ Tây xưa
Mang mưa về trong ấy !
Ướt dượt hương đầm sen
Trưa nay đường Quảng Bá
Thật lạ mà thật quen
Mưa táp vào áo mỏng
Bạn cười bắt tay nhau
Ôi những người lính cũ
Hai phương trời xa đâu ?
Con cá quẫy dưới hồ
Li rượu nghiêng ngả sóng
Lát bạn lên đường về
Tạnh mưa rồi ...đường vắng
Bao giờ được về Nam
Nhớ đi tìm đồng đội
Chiều Sài Gòn còn mưa ?
Hồ Tây còn gió nổi .
5/8/2014
Dép đúc
Ngày đầu tiên vào lính
Chân lúng túng ngập ngừng
Dép đúc cười tưng tửng
Chào những chàng tân binh
Nào chân chú lội bùn
Móng vàng như cua ốc
Nào bàn chân lên rừng
Cựa căng từng dây dép
Lũ học trò chân trắng
Lủng lắng những vết lằn
Rồi quen ngay tức khắc
Dép đúc rất chóng thân
Có bao điều lính dấu
Có bao điều lính buồn
Có bao điều trăn trở
Dép đúc đều không quên
Có những đêm ngập ngừng
Kê dép ngồi tâm sự
Đêm như là mầm trổ
Dép đúc cũng bồi hồi
Đêm hành quân mưa rơi
Trật trồi chân lính trẻ
Lính cũng thương dép thế
Võng đu rừng chơi vơi
Bao năm trong lửa đạn
Dép dính liền với người
Dép biết nhiều nước mắt
Lính khóc vì nhau thôi
Người lính ngày vào lính
Là có dép ngay rồi
Phút hi sinh còn dép
Vẫn bên mình lính thôi
Bây giờ ngày nhập ngũ
Bao kỉ niệm hội hè
Họ hàng nhà dép đúc
Sao thấy mình buồn ghê
Saturday, May 30, 2015
Chuyển mùa
Đã cuối mùa mưa Hoa cúc quì giật mình vàng lên những con đường cắt rừng Suối óc ách Chúng mình bám địch phía Thanh An Pháo Hàm Rồng thì thùng gõ vào đêm con nai tác mẹ Chuyển mùa rồi ! Trời cao hơn , những vì sao trên cao nguyên xanh hơn Bộ đội hối hả Năm nào cũng thế Tháng mười gói bộc phá vào bâng khuâng Tháng mười là sắp hành quân Phía chúng mình đi tới là phía nhiều giặc Hoa quì thì ở đâu cũng nhiều Mộ bạn mình năm ngoái cũng đầy cỏ và hoa Chuyển mùa ở Tây Nguyên rất lạ Gai xấu hổ cong queo Hoa xấu hổ he hé tím Choàng những nấm mồ chết trẻ trên cao nguyên Chúng tôi đi về phía Đông Đồng đội nằm ở phía Tây hoa rưng rưng khóc Chuyển mùa mưa sang khô Sốt rét Rấm rứt mồ hôi những đêm hành quân Những trận sốt tụt dép Những trận sốt mắt hoa lên pháo sáng lùng bùng Chúng tôi đi về hướng Đông Phía nhiều đạn, nhiều bom, nhiều những bông hoa chưa gặp Chỉ thương những bạn tôi nằm lại những cánh rừng Hoa cứ rưng rưng HN - Tháng 10/2012 |
||||
Tiếng còi tàu
Chỉ có con tàu xưa là không cũ
Tiếng còi xưa là dĩ vãng mất rồi
Mà dĩ vãng không mới lên được nữa
Tôi nhìn làng cứ ngược lại xa xôi
Con đê đã bao lần bị vỡ
Làng bao lần chìm nước ngấu phù sa
Trong eo óc than trời mùa lũ
Tưởng rất gần mà đã thật là xa
Đồng còng lưng gánh mùa màng thất bát
Chân mẹ tôi mang bùn lấm về nhà
Nay mộ mẹ con ốp từng phiến đá
Khói hương nào xanh mặt ruộng ngày mưa ?
Chỉ dĩ vãng chẳng mới lên được nữa
Mồ mả tổ tiên cơi nới biết mấy lần
Con tàu vẫn mỗi ngày qua lầm lũi
Tiếng còi tàu như con gọi mẹ ơi
Lính già uống bia
Top of Form
Bottom of Form
Uống đi bạn ơi !
Già rồi thì đừng cấp tập
Cứ điểm xạ như mình ngày xưa giữ
chốt
Trời hôm nay không mưa
Nhưng mỗi già mỗi càng thêm
lạnh
Ngày mai ông táo lên chầu
Quán bia lính chắc được khen đấy
chứ
Ta ngoảnh lại một năm dù mưa dù
nắng
dẫu vắng dẫu đông thứ bẩy vẫn đỏ
đèn
Đâu chỉ có cựu lính Sinh viên
Ngôi nhà chúng mình là ngôi nhà của
lính
Mười chín xê *là điểm đến
Của những người lính thương
nhau
Dẫu đi đâu về đâu
Cốc bia hơi nồng cay tình đồng
đội
Có lúc mày tao lúc anh tôi tớ
cậu
Vẫn chỉ một thứ tình lính chiến ngày
xưa
Chẳng có ai hơn chẳng có thiệt
thua
Nhìn nhau nhớ nước sôi Thạch
Hãn
Nhìn nhau nhớ chiều hành quân qua
giới tuyến
Ba lô còn tím ngắt cánh hoa
mua
Chẳng có dưới trên chảng có dạ
thưa
Ai thành danh cũng vẫn là đồng
đội
Dẫu nhà lầu xe hơi cũng chỉ là vay
nợ
Những bạn nằm đâu đó suốt Trường
sơn
Uống đi bạn ơi, già thì uống chậm
thôi
Thương những đứa chẳng về suốt năm
dài đói khát
Đứa chìm dưới sông chưa một lần biết
bia hơi dịu mát
Đứa vùi trong thành cổ cơm chưa
ăn
Ta gói hết kỉ niệm của chiến tranh
Dệt nên màu tấm áo
Ta mặc suốt đời màu áo ấy
Mỗi khi nghĩ về nhau
Ta nghĩ về nhau nghĩ về đồng
đội
Ở quán bia chẳng bao giờ trên
dưới
Chỉ là đồng đội của nhau thôi
Năm cũ xắp qua năm mới xắp đến
rồi
Thương nhau nếp nhăn hằn ngang hằn
dọc
Thương nhau xoa đầu nhau rơi từng
sợi bạc
Kẽ bàn tay cánh lá cũng khẽ
lùa
Ta uống chút nữa rồi về đọc Máu và
Hoa
Ta lại gặp bạn bè bước ra từ
lửa
Ta gặp lại tuổi hai mươi Tích Tường
Như Lệ
Gặp bạn mình về từ chợ Sãi Triệu
Phong
Gặp những đứa chết vùi trên “một
không mười lăm”
Gặp những đứa xác cháy đen trong xe
tăng “Dak to Tân cảnh”
Chén rượu cuối năm này xin
tặng
Cho bạn tôi những đứa không về
Ngoài kia những con đường lấp lánh
Thủ Đô
Có bao nhiêu chiến binh còn lam lũ
Tết này hoa đẹp không? Rượu bia có
đủ
Những bạn tôi ơi ở khắp mọi miền
Ta lại gặp những khuôn mặt lạ mà quen
Bước ra từ nghĩa trang dằng
dặc
Chợt nhận ra mình chưa làm gì được
Cho sự yên lòng đồng đội đã ra đi
Dù bạn hi sinh chẳng đòi hỏi chúng
ta gì
Ngày cuối năm này dẫu chẳng rượu
chẳng bia
Trời đổ lạnh ngồi sát nhau áo bạn
truyền hơi ấm
Chiều cuối năm nhìn mắt nhau lạ
lắm
Lửa ấm nồng trong mắt lính ngày
xưa
viết Trưa 2/2/13 Mỹ Đình
Sunday, May 17, 2015
MUỘN MÀNG
Mưa phùn và rét.
Con đường Phạm Hùng dọc TT Hội nghị Quốc Gia vẫn nườm nượp người xe. Tôi
rẽ vào cổng QKTĐ, ở đây đã đông người lắm toàn là lão bộ đội. Hội
trường hầu hết là áo lính và huân chương lấp lánh trên ngực. Người ngồi
ghi danh sách đến dự và thu tiền ủng hộ là một đại tá ngoài tám mươi
tuổi. Bác đại tá nhìn tôi hỏi mày cũng đi dự với 48 à ? Tôi bảo em có
việc ghi chép hôm nay . Bác Trần Nam cười , coi như mày là phóng viên đi
không phải đóng góp. Bác Nam là CCB trong tổ Nam Đồng với tôi nguyên là
cán bộ trung đoàn 48 hồi vào nam năm 1967. Bác Nam cười bảo tôi mày vào
đi đang hát đấy.
Trong hội trường chừng có ngót hai trăm người
đang say mê nghe lính già hát. Lính đến từ Hà Nam , từ Thanh Hóa , từ
hải Dương Hải phòng và rất nhiều lính Vĩnh Phú. Họ đang say sưa độc tấu ,
hò vè và vừa hát vừa khóc. Tôi ghé vào hàng ghế cuối, người quay lại
bắt tay tôi là Trịnh Xuân Lan . Lan đang nói chuyện với anh An bác sĩ .
Anh An quay sang tôi, bọn mày viết truyện về lính chiến đ. bao giờ nhắc
đến quân y bọn tao nhá, bao nhiêu thằng sống sót để được phong anh hùng
là đều qua tay may vá của bọn tao đấy nhá, bao thằng về đời đi khắp nơi
kể chuyện đì đòm cũng qua bọn tao tái tạo tân trang mặt mũi cho đấy nhá.
Rồi anh cười , mày đến tao tao cho xem những cái tao ghi chép những
điều chúng mày cứ đì đòm ngoài trận địa mà đ. biết đàng sau nó thương
tâm thế nào. Chiến tranh có một nửa non là đánh nhau thôi nhá, già nửa
đau thương chúng mày lại quên hoặc là đ. biết. Đó là cái đằng sau trận
địa, đó là cái hậu phương đau đớn chịu đựng đợi chờ…
Anh An đã bẩy
mươi lăm mà khỏe dã man, anh bóp tay mình đau điếng. Chợt nghĩ hôm xem
truyền hình trực tiếp về đánh thành cổ Quảng trị anh đưa ra cuốn sổ ghi
chép hơn một nghìn người vào hầm phẫu của anh bên bờ Thạch Hãn và các
anh là người rút cuối cùng ngày 14/9/72.
Cũng như các chương trình
mà các cuộc gặp mặt bạn chiến đấu khác, cũng công bố những việc nghĩa
tình đã làm, thông báo ai còn ai mất, ai khó khăn, tìm được bao nhiêu mộ
liệt sĩ rồi phát biểu chia sẻ nỗi niềm. Sau đó là mừng thọ. Tôi lắng
nghe đến đoạn đọc danh sách trao tặng kỉ niệm chương Trung đoàn Thăng
Long cho một số các liệt sĩ. Trong đầu tôi như có một tiếng nổ bùng lên.
NHững người có tên đều hi sinh ở Cửa Việt 1,2/5/1968. Đều sinh ở 1935-
1940 đều là cán bộ tiểu đoàn trưởng và các đại đội trưởng của D3 E 48 .
Tôi chợt nhớ đó là trận của D3/e48 và D6/e52 làm nên cái tên Thiên thần
Cửa Việt diệt gọn một tiểu đoàn Mĩ và đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn
bắn cháy 9 xe tăng ở Đình Tổ , xóm Soi, Đại Độ . Sao muôn màng thế ? với
những con người anh hùng như vậy.
Tôi quay sang Trịnh Xuân Lan. Lan
lặng lẽ. Tóc Lan nay đã hói lên nhiều nhưng trông vẫn trẻ và cường
tráng. Anh Dật tác chiến sư đoàn nói, thằng này trong một năm nó lên đến
mười cấp. Lan cười, ai mà biết nó diễn ra như thế hả bác. Lan là D
trưởng D2 vào cuối năm 1978 rồi làm E trưởng 48 lúc 26 tuổi năm 1979.
Lên tham mưu phó QK2 . Chiến công của Lan trong những ngày đánh quân pon
pot ở K sư 320 ai mà chả nhớ. Cũng như cái tên Khuất Duy Hoan ở E64,
cái tên Trịnh xuân Lan gắn với truyền thống sư đoàn trong những ngày
cuối 78 đầu 79 trên mặt trận Tây nam.
Sau nhiều năm hôm nay tôi
gặp lại những người chỉ huy một thời ở chiến trường Tây nguyên. Họ vẫn
khỏe và lại ồn ào oang oang như một thời đánh giặc ngày xưa. Anh Lê
Quang Bình đầu hói lốc, bác Nguyễn Phú Vỵ , anh Lương văn Lai, anh
Nguyễn hữu Dật, anh Nguyễn Hữu Mão …những người đã lên tướng đã làm sư
đoàn trưởng sư đoàn phó các sư đoàn sau này trên các chiến trường .
Chả cứ gì sư đoàn tôi hay ở trung đoàn 48 . Mọi việc làm tri ân là để
tưởng nhớ nhau cho tròn đạo nghĩa còn thì muộn màng hết cả. Mọi sự truy
tặng nhắc nhở công ơn là để cho người còn sống mà thôi chứ người đã chết
đâu màng danh lợi. Không tìm và viết về họ là có lỗi, những chiến công
một thời nhắc lại thôi cũng đã thấy xót xa và thương nhớ người đã khuất.
Dẫu biết thế, dù muộn màng chúng ta cũng làm, cũng để nhắc nhở chính
chúng ta còn sống thì cố mà làm tốt đạo lí đời người. Người thường làm
việc ấy đã khó huống hồ đời lính, đời những người chỉ chịu hi sinh và
mất mát.
Saturday, May 16, 2015
GIẤC MƠ TRƯA
Già rồi mà cũng mơ trưa
Thấy mình đang chạy tắm mưa quanh nhà
Ai khúc khích ai cười ta
Lẫn trong tiếng sấm vỡ òa tiếng em
Cơn mưa bỗng tạnh, nắng lên
Một mình ta đứng giữa vườn tiếng chim
Cầu vồng nổi phía nhà em
Ta ôm quần ướt nấp bên hàng rào
Đất thì thấp trời thì cao
Giấc mơ trưa dắt ai vào ngày xưa
Thấy mình đang chạy tắm mưa quanh nhà
Ai khúc khích ai cười ta
Lẫn trong tiếng sấm vỡ òa tiếng em
Cơn mưa bỗng tạnh, nắng lên
Một mình ta đứng giữa vườn tiếng chim
Cầu vồng nổi phía nhà em
Ta ôm quần ướt nấp bên hàng rào
Đất thì thấp trời thì cao
Giấc mơ trưa dắt ai vào ngày xưa
Thursday, May 14, 2015
MƯA
Ai tung đại dương lên trời
Làm mưa trên biển
Ta khỏa trần về quá khứ
Ta hồng hoang, như nhân loại cũng ấu thơ
Làm mưa trên biển
Ta khỏa trần về quá khứ
Ta hồng hoang, như nhân loại cũng ấu thơ
Rần rật trời và sóng ,
Bến bờ hóa mông lung
Nỗi giận dữ nén dồn ra nước mắt
Những hạt nước chém ngang chém dọc
Chém vào cả những kí ức ngây ngô
Cái thứ chất keo để thời gian đúc con người thành đá chờ chồng
Cái thứ để thượng đế nhào nặn hư vô thành nhân loại
Mà sao rười rượi
Mưa
Ta tìm thích thú
Cùng lũ trẻ tắm mưa
Ta tìm ta mùa sấm chớp
Uẩn ức cứ hóa thành giọt mây xám
Thịnh nộ cũng hóa thành nước mát mà thôi
Người hét to, tiếng sấm ở trời ào ạt nước mắt tuôn
Mưa rào chóng tạnh
Người im thít, khổ đau rỉ ra âm thầm giọt chì không gian
Mưa Ngâu lê thê
Thượng đế bỏ quên ánh sáng khiến những cơn mưa mùa đông buốt dầm dề
Ta rút từ mớ hổ lốn trong kiến thức cọ sát đã đi qua
Có cơn mưa một thời ta cua ốc
Có cơn mưa một thời chiến hào ngang dọc
Ngang dọc những máu và bùn và mắt những người sắp hi sinh
Mưa mà vẫn khát - đồng đội tôi bảo thế !
Rồi một chiều mưa
Em chạy trốn ta trên bãi biển
Có một người đàn bà
Ngồi ước mưa giống ngày xưa trên mặt vịnh
Từ hồng hoang đến bây giờ mưa cũng chỉ là nước mắt
Của trời đó thôi.
Bến bờ hóa mông lung
Nỗi giận dữ nén dồn ra nước mắt
Những hạt nước chém ngang chém dọc
Chém vào cả những kí ức ngây ngô
Cái thứ chất keo để thời gian đúc con người thành đá chờ chồng
Cái thứ để thượng đế nhào nặn hư vô thành nhân loại
Mà sao rười rượi
Mưa
Ta tìm thích thú
Cùng lũ trẻ tắm mưa
Ta tìm ta mùa sấm chớp
Uẩn ức cứ hóa thành giọt mây xám
Thịnh nộ cũng hóa thành nước mát mà thôi
Người hét to, tiếng sấm ở trời ào ạt nước mắt tuôn
Mưa rào chóng tạnh
Người im thít, khổ đau rỉ ra âm thầm giọt chì không gian
Mưa Ngâu lê thê
Thượng đế bỏ quên ánh sáng khiến những cơn mưa mùa đông buốt dầm dề
Ta rút từ mớ hổ lốn trong kiến thức cọ sát đã đi qua
Có cơn mưa một thời ta cua ốc
Có cơn mưa một thời chiến hào ngang dọc
Ngang dọc những máu và bùn và mắt những người sắp hi sinh
Mưa mà vẫn khát - đồng đội tôi bảo thế !
Rồi một chiều mưa
Em chạy trốn ta trên bãi biển
Có một người đàn bà
Ngồi ước mưa giống ngày xưa trên mặt vịnh
Từ hồng hoang đến bây giờ mưa cũng chỉ là nước mắt
Của trời đó thôi.
Wednesday, May 13, 2015
XƯA CŨ
Chả còn ruộng sâu để tháng năm tì tõm
“ Gái Sơn Tây” mặc yếm cũng xưa rồi
Manh yếm thủng đâu còn ngăn được gió
Mà gió vẫn dừng ở gò ngực em tôi
Các bủ các bầm kiếm đâu thuốc nhuộm răng bền thế?
Nay đi tìm đồ ngoại tóc lổ loang
Chân váy sau trăm năm vẫn là cái “Mấn”
Khiến thời trang sành điệu biết quay về
Người Sơn Tây dựa lưng vào núi Tản
Lúa ruộng lầy bì bõm đổ mồ hôi
Thì đấy Thủy tinh và Sơn tinh vùng vẫy
Yếm rách ngày xưa nay đã lành rồi
Ta về lại triền đá ong thành cổ
Dưới gốc si già em cười trắng nắng trưa
Mây trắng thế xứ Đoài mây vẫn trắng
Giá có răng đen bền đến tận bây giờ?
Cửa sông Hát có ngàn ngàn mái tóc
Đen như mun và răng tăm tắp hạt na
Không chịu nhục với kẻ thù phương bắc
Kẻ nhòm thân con gái ngọc ngà
Dưới thẳm sâu mênh mông châu thổ
Những hài cốt người con gái răng đen
Không chịu để lũ bắc phương nhòm đến
Yếm rách người xưa để nước lớn khát thèm
Chả còn ruộng lầy nữa trưa hè tì tõm
Gái Sơn Tây câu chuyện cũ xưa rồi
Ôi ta muốn ngược về kí ức
Trưa xứ Đoài xanh lúa với mây trôi
*câu vè cũ “ con gái sơn tây yếm thủng tày dần/răng đen hạt nhót chân đi cù nèo…
ở quê tôi Dị bản trong đó có câu. “ nắng tháng 5 cô đi gặt ruộng sâu/ Hai cái vú tì tõm như hai con trâu sa lầy..”
Nay đi tìm đồ ngoại tóc lổ loang
Chân váy sau trăm năm vẫn là cái “Mấn”
Khiến thời trang sành điệu biết quay về
Người Sơn Tây dựa lưng vào núi Tản
Lúa ruộng lầy bì bõm đổ mồ hôi
Thì đấy Thủy tinh và Sơn tinh vùng vẫy
Yếm rách ngày xưa nay đã lành rồi
Ta về lại triền đá ong thành cổ
Dưới gốc si già em cười trắng nắng trưa
Mây trắng thế xứ Đoài mây vẫn trắng
Giá có răng đen bền đến tận bây giờ?
Cửa sông Hát có ngàn ngàn mái tóc
Đen như mun và răng tăm tắp hạt na
Không chịu nhục với kẻ thù phương bắc
Kẻ nhòm thân con gái ngọc ngà
Dưới thẳm sâu mênh mông châu thổ
Những hài cốt người con gái răng đen
Không chịu để lũ bắc phương nhòm đến
Yếm rách người xưa để nước lớn khát thèm
Chả còn ruộng lầy nữa trưa hè tì tõm
Gái Sơn Tây câu chuyện cũ xưa rồi
Ôi ta muốn ngược về kí ức
Trưa xứ Đoài xanh lúa với mây trôi
*câu vè cũ “ con gái sơn tây yếm thủng tày dần/răng đen hạt nhót chân đi cù nèo…
ở quê tôi Dị bản trong đó có câu. “ nắng tháng 5 cô đi gặt ruộng sâu/ Hai cái vú tì tõm như hai con trâu sa lầy..”
Tuesday, May 12, 2015
CON TÀU ĐI VỀ MIỀN GIÓ BẤC ( phần 2)
Lân thập thò ngoài cửa phòng cô giáo toán tên Lương. Trong
phòng ồn ào lời chúc mừng và rất nhiều những bông hoa hồng. Chiều nay
Lân bỏ công lên đồi chọn lựa mãi được vài bông hoa sim mọc sớm. Nó không
tím như lúc vào hè. Nó phơn phớt thèn thẹn như má con gái. Cả phòng các
thầy cô giáo trẻ ngạc nhiên thấy anh học trò mặc áo lính bước vào với
bó hoa rừng. Lân ngượng ngùng và cô giáo Lương còn ngượng ngùng hơn. Anh
đứng im một lát trước sự im lặng của mọi người toàn những là giáo viên
trẻ, mạch lạc nói :
- Tôi à …là em chúc sức khỏe các thầy và chúc
mừng ngày tám tháng ba cô giáo Lương. Có một thanh niên ăn vận lịch sự
nhìn Lân ngạc nhiên và dò xét, đuôi mắt bỗng nhíu xuống. Các thầy giáo
đều vỗ tay hoan hô sau lời chúc của anh học trò Lân. Riêng một người
không vỗ tay… Cô Lương đỡ những bông hoa rừng trên tay Lân có một cảm
giác thật khác lạ, cảm giác không giống những lần cô được bạn tặng hoa ở
nước ngoài.
Lân ra về ngay chỉ ít phút trong căn phòng của cô
Lương. Con đường về lớp bập bềnh bóng bạch đàn và những ngôi sao rất
xanh trên vùng đồi trung du.
Nhưng chuyện xẩy ra ngoài dự kiến của Lân và Lương.
Một năm sau ngày giải phóng miền Nam, trường được nghỉ ba ngày. Cô Lương
nhờ Lân đưa đi Vĩnh Phúc đến nhà người lính trong thư. Suốt dọc đường
đi Lương ngồi sau xe đạp của Lân qua phà Chèm rồi theo đê sông sông Hồng
về quê anh lính. Lân cắm cúi đạp xe không hề hỏi cô giáo là đến nhà ai ở
đâu, anh thầm nghĩ người con trai nào lại may mắn đến thế. Rồi anh ước
ao có một ngày anh cũng có một cô giáo, chỉ là một cô giáo miền quê thôi
đến tìm anh như cô Lương đây. Nắng nhễ nhại, nắng xanh ngằn ngặt trên
đồng ngô. Thấp thoáng những người chăn bò ven sông lơ đễnh nhìn đôi trai
gái đèo nhau đi trên đê. Họ đang cần tìm một bóng dáng đeo ba lô hối hả
trở về chứ chả cần những mái đầu phi dê óng ả. Sau chiến tranh mọi thứ
như dấm dứt bùng nổ. Sau chiến tranh mọi thứ như phơi bầy ra ánh sáng
một cách thô thiển. Mọi ước lệ bây giờ không còn mấy linh thiêng. Chỉ
một năm trước đây thôi cũng vào ngày 30/4 năm ngoái, Lân đang tiến vào
Sài Gòn từ hướng Tây bắc. Hôm ấy bao nhiêu bạn anh nằm lại trên cánh
đồng cầu Bông. Bao nhiêu đứa bạn cùng trường nằm lại không về, không còn
tiếp tục những mùa thi đèn sách. Chỉ một năm thôi mà xa vời vợi. Thỉnh
thoảng chợt lãng quên bài vở thì những ngôi mộ đắp vội trong rừng lại
hiện ra… Đến một lối rẽ vào làng có cây Vông cổ thụ, Lương hỏi cô gái cắt
cỏ đường vào nhà anh Lê Chiến. Lân giật thót mình. Cô gái cắt cỏ ven
ruộng ngô thảng thốt nhìn hai người lạ rồi chỉ vào ngôi nhà trong vườn xoan. Lương hồi hộp còn Lân cũng thấy lạnh sau gáy. Hai người đi lặng
lẽ, cái líp xe đạp nổ tanh tách tưởng chừng như cả hai đều đếm được
những vòng quay bánh xe lăn. Sao Lương lại có bạn Lê Chiến? Mà sao cũng
lại là quê Vĩnh Phúc? Chả nhẽ thằng “Chiến bật lửa” bạn mình quen cô
giáo trời Tây này ư?
Một người con gái chạy ra rồi sững lại nhìn cô
Lương rồi nhìn sang Lân với bộ quân phục bạc màu. Người con gái nhà quê
líu ríu mời khách vào nhà. Trên bàn thờ là hai tấm ảnh, một người mẹ
quấn khăn và tấm ảnh một anh bộ đội. Cô gíao Lương khuỵu xuống còn Lân
thì bàng hoàng đỡ cô trong khi mình cũng thấy chân tay bải hoải. Anh ấy
đây ư? Lương thốt lên. Còn Lân thì cũng buột ra lời: Chiến ơi, ra là nhà
mày đây ư? Lương xoay mặt nhìn vào Lân rồi đột nhiên cô ôm lấy anh. Lân
bỗng ôm chặt lấy cô giáo, nước mắt rơi lên mái tóc uốn gọn gàng của người
con gái. Tự dưng tay Lân vuốt lên mái tóc cô Lương, nghe rõ nhịp tim cô
gái đập trên ngực mình. Phút chốc căn nhà như thinh không, hình ảnh
người bạn cùng chiến đấu cùng trường hiện về. Cũng lúc ấy lá thư và cánh
hoa sim khô miền Trung cũng hiện về. Không gian như co hẹp lại với mùi
hương trên hai bát hương vẫn thâm trầm.
Người ta báo tử Lê Chiến
chỉ sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng chừng 3 tháng. Mẹ Chiến đổ
bệnh và cũng chỉ sau ba tháng là qua đời. Người em gái của Chiến lấy
chồng làng bên nước mắt chưa khô, ngày ngày đi về thắp hương cho cha mẹ
già và một người anh chết trẻ. Căn nhà lạnh lẽo, chỉ có tiếng chim ngoài
vườn thì vẫn ríu ran. Sáng hôm ấy cả Lân và Lương nghe thấy tiếng Cuốc
kêu ngoài bờ rậu. Lâu lắm rồi Lân mới nghe thấy tiếng chim Cuốc gọi hè.
Tiếng Cuốc gọi hè nghe mà như nhìn thấy mầu vải chín, nghe mà như ngửi
thấy cả mùi hăng hắc khi bẻ cành vải đầy những kiến đen. Tiếng Cuốc kêu
ở sau hàng râm bụt có những bông hoa vòi đỏ chỉ cong xuống ruộng lúa
ong óng vàng. Sau chiến tranh màu hoa đột nhiên đỏ thế?
Lượt trở về,
chiếc xe đạp nặng như chì. Con đường lúc về mới thấy nhiều ổ gà. Lân và
cô giáo Lương không ai nói nhời nào. Sông Hồng đang mùa nước, những bọt
bồi băng đầu mùa sủi lên những tảng bọt như trái bưởi lẫn rều rác oàm
oạp dưới đê. Đến gần Chèm, họ nghỉ lại bên một cái điếm canh. Lân ngắt
hai chót lá chuối trải trên mép cỏ. Hai người ngồi nhìn sang sông. Cái
cột điện Chèm lừng lững chọc lên trời có mấy cánh tay khẳng khiu muốn
gục xuống vì mớ dây điện qua sông quá tải cũ mèm. Lân đăm đăm nhìn hàng
dây điện ngang sông như một dấu bằng. Bất chợt anh nghĩ vùng quê bên này
và vùng thành phố bên kia đẳng trị năng lượng. Cái dấu bằng mong manh
quá. Chỉ cách một con sông thôi một bên là thành phố sáng đèn, một bên là
nhà quê áo nâu chân đất. Lân nghe đâu đó có câu mọi đẳng trị chỉ là tạm
thời còn bất đẳng trị mới là vĩnh viễn, có thế xã hội mới phát triển.
Lương ngồi bên Lân, cô chợt nhớ tấm khăn dù hôm nào nhưng cô không muốn
nhắc đến nó, cô sợ mất đi thứ mà mình rất áy náy, nếu không trả lại chủ
nhân. Đột nhiên Lân nói như nói một mình, Chiến nó chết lúc đánh Tuy
Hòa. Biển thì xanh ngời ngợi còn nó thì nằm lại ở cánh đồng lúa con gái.
Cái bật lửa mà nó để dành cho mẹ nhóm bếp chả biết có ai đưa về được
không? Không biết tự lúc nào, Lương đã nép vào vai Lân, cô đặt bàn
tay mình lên ngực áo quân phục bạc màu của anh, bàn tay run run và môi
cô áp vào môi người lính học trò. Đúng lúc ấy có một thằng bé đánh dậm
đi từ ven đê lên, nó giật mình rồi trố mắt nhìn hai người lạ hôn nhau.
Bỗng nhiên nó ù té chạy, cái dậm kéo lê trên cỏ khuất vào bụi tre làng.
Chuyện cô giáo toán tên Lương đi với anh học trò Lân bỗng thành tin rì
rầm ở khu giáo viên. Chả ai nói quả quyết điều gì, cũng chả thể có ai
chứng minh trai trên gái dưới gì nhưng người ta nói rằng con mắt Cô
Lương tự thú hết thẩy. Trong lớp , trong khóa học với Lân chả một ai
mảy may biết chuyện Lân đã đi với cô giáo về Vĩnh phúc tìm bạn hôm ấy.
Ấy vậy mà một hôm anh Thụ tổ chức khoa xuống gặp Lân “bóng đèn”. Hai
người ngồi chuyện trò lâu lắm ngoài phòng học. Anh Thụ cũng từng là bộ
đội đánh bên Lào từ hồi Coong Le về học khoa Cơ khí rồi ở lại trường làm
tổ chức.
Anh Thụ:
- Lân à, biết là yêu thì không có tuổi và
càng không có đẳng cấp. Nhưng tớ nghĩ cậu cũng đủ bản lĩnh để làm cái
việc không ảnh hưởng cho khoa mình. Chỗ cùng là đảng viên mình nói thật
…cậu có thể hiểu mình.
Lân ngước nhìn anh Thụ người mà Lân yêu quí từ hồi chưa đi vào bộ đội.
- Anh yên tâm đi. Em biết là cô ấy yêu ai chứ anh.
Anh Thụ nắm tay Lân ra về lúc trời chạng vạng tối. Đêm ấy Lân ngồi
trước bản vẽ Máy cắt Kim loại đến quá 1 giờ sáng. Những trục những ổ bi
zoăng phớt nhảy múa chập chờn, những con tính xác định mô men hàng hàng
lớp lớp như rào dây thép gai chồng đống. Mùi tóc cô giáo Lương thậtt lạ,
con mắt Lương lúc nhìn Lân trên đê sông Hồng cũng thật lạ. Lân cảm giác
mình là một người con trai nào đấy mà Lương đi tìm mơ hồ. Sau ngày hôm
ấy, Lân hiểu Lê Chiến và Lương đã viết thư cho nhau. Cũng như Chiến, Lân
từng nhận được lá thư của một cô gái nào đó. Nhưng Chiến thì sâu sắc còn
Lân thì nông nổi, chuyện thư từ như một tập phim thoáng qua với anh.
Nhưng cũng nhờ những lá thư ấy mà các anh đã sống quyết liệt trước đạn
bom nhưng lại thấm đẫm yêu thương với người đời. Chỉ có các anh mới hiểu
lấy mình còn người ngoài cuộc hiểu các anh thì khó.
Khuya lắm, lúc
tiếng còi tàu ngoài ga phía Gang Thép tru lên, Lân bừng tỉnh. Anh biết,
Lương đã thấy Lân chính là Chiến. Nụ hôn với Lân là nụ hôn mà Lương trao
cho Chiến đó thôi. Lân rì rầm…Chiến ơi tao đã gặp cô ấy, tao đã hôn cô
ấy, tao nhân danh mày để được người con gái xinh đẹp ấy ban tặng nụ hôn
đầu đời. Tao cám ơn mày “Chiến bật lửa” ạ.
***
Ngày nhận đồ án Công nghệ chế tạo Máy cũng là học kì thứ 9 ở trường.
Đây là đồ án môn học quan trọng của Lân. Lân sững người khi thấy tên
giáo viên hướng dẫn mình lại là người giáo viên anh đã gặp trong ngày
8/3 ở phòng cô Lương năm trước. Hôm ấy Lân nhớ, khi anh tặng hoa cô
Lương tất cả vỗ tay chỉ có người giáo viên này ngồi lặng im. Đã một năm
nay anh không hề nói chuyện với Lương tuy vẫn gặp cô lên lớp dậy năm thứ
nhất. Những buổi tập trung toàn trường anh vẫn tìm bóng cô giáo ngồi ở
khối giáo viên. Anh vẫn biết có cặp mắt cũng nhìn về phía khóa sắp ra
trường bọn anh. Anh cũng biết có một thầy giáo không thích màu áo lính
bạc phơ phếch như anh. Nhưng điều bất ngờ hơn là ngay ngày hôm sau bộ
môn gọi Lân lên thông báo anh chuyển thầy hướng dẫn. Thầy hướng dẫn mới
đã già gọi anh vào phòng và nói:
- Thày Hồng đổi anh sang cho tôi
và có nhờ tôi quan tâm giúp đỡ anh vì anh ở chiến trường về. Anh yên tâm
tôi sẽ làm việc với anh để cùng hoàn thành đồ án này.
Đêm ấy, lại
lần nữa Lân nhớ tới cô Lương. Lại lần nữa nhớ tới đêm “Chiến bật lửa “hi
sinh trên cửa biển Tuy Hòa. Thế mà đã hai năm rồi. Đột nhiên anh nghĩ
chắc giờ xương thịt Chiến đã tan hết. Lân bước ra ngoài. Đêm trung du
gió ngàn ngạt thổi trên những đồi cỏ úa và bạch đàn phơ phếch. Trời Việt
Bắc đầy những ngôi sao li ti. Mà quái lạ đến bây giờ Lân mới nhận ra
những ngôi sao trên trời trung du Việt bắc xanh hơn bất kì nơi nào khác.
Khi Lân làm Đồ án tốt nghiệp đại học ấy là lúc vợ chồng cô giáo Lương
chuyển công tác vào miền Nam. Anh chỉ biết tin này khi gặp một cô giáo
dậy Sức bền vật liệu cũng học ở Liên xô về báo tin và chuyển lời tạm
biệt của Lương.
Từ hôm ấy, sau mỗi bữa cơm chiều Lân lững thững đi
trên đồi bạch đàn anh như thấy có Chiến về thủ thỉ với mình. Chiến hỏi
về đồ án về dự tính tương lai rồi cuối cùng bao giờ Chiến cũng hỏi về
Lương. Cũng từ ấy Lân lại càng thấy những ngôi sao trên trời Việt Bắc
xanh hơn, thấy mùi hương rừng bạch đàn quyến rũ hệt như mùi tóc cô giáo
Lương lần đầu tiên anh gặp trên chuyến tàu mùa đông.
Đời cứ có
những chuyện càng rũ ra nó càng vận vào mình. Trời thì lồng lộng thế
thôi chứ nó vo tròn lại ấy mà. Có người cực đoan thì bảo chuyện đời
chuyện tình cũng giống hệt và tuân theo Vật lí vậy thôi. Mọi chuyện rồi
nó sẽ lại trở về vị trí thế năng thấp nhất. Lân băn khoăn mỗi lần nghĩ
ngợi điều người đời chém gió như thế.
Lân trở thành Phó tổng Giám
đốc phụ trách Kĩ thuật kiêm cả an toàn lao động một Tổng Công Ty. Cương
vị này khiến anh vào ra Nam Bắc thường xuyên. Ba mươi năm nay anh hầu
như đã quên chuyện cô giáo Lương và thày giáo Hồng thì đời lại khiến anh
gặp thầy Hồng cô Lương. Một lần có vụ tai nạn lao động chết người của
công ty thành viên tại Sài gòn. Lân thay mặt Tổng công ty vào giải quyết vụ
việc. Giám đốc công ty thành viên chính là thầyy giáo Hồng. Thầy nói:
- Tôi xin nhận khuyết điểm để xảy ra tai nạn này. Thưa đồng chí Phó
tổng Giám đốc, tôi xin từ chức và đóng góp phần bồi thường cho công nhân
bị nạn.
Ở cuộc họp ra, thầy giáo Hồng nắm tay Lân và nói:
- Tôi hiểu anh, biết là anh sẽ chiếu cố tôi. Nhưng anh Lân ạ, ta hiểu nhau từ ba mươi năm trước rồi. Tôi không hối hận đâu.
Trước khi về thầy Hồng nói với Lân:
- Vợ tôi vẫn khỏe và cũng sắp nghỉ dậy ở ĐH Sư phạm thành phố rồi. Cô ấy vẫn nhắc tới các anh.
***
Một mùa đông bốn mươi năm sau ngày thống nhất hai miền. Bà Lương lại
mới ra Việt Bắc. Lần này bà đi về dự lễ kỉ niệm 50 năm ngày thành lập
trường đại học mà bà từng làm giáo viên những năm mới vào nghề. Con tàu
không còn kót két hôi hám như ngày xưa. Nhưng bà thấy buồn, chồng bà đã
mất cách nay vài năm vì bạo bệnh, còn các con đều học giỏi, rồi định cư ở
nước ngoài. Bà đang trở lại vùng gió bấc mà bà đã từng tê tái, từng yêu
cái rét thấu xương nhưng lại cứ làm má con gái ửng đỏ. Bà rút máy điện
thoại gọi cho bà bạn từng là giáo viên Sức Bền Vật liệu đã nghỉ hưu. Bà
dặn bà bạn nhớ mang cái gói khăn dù mà trước khi vào Nam bà cẩn thận gửi
bạn giữ hộ. Bà biết ngày mai Lân cũng sẽ về hội trường. Bà sẽ trao lại
cái khăn dù mà bốn mươi năm trước anh đã quàng lên cổ mình vào một đêm
gió bấc.
Tháng 5/2015
CON TÀU ĐI VỀ MIỀN GIÓ BẤC ( phần 1)
Đêm thật đen và lặng. Ga lưa thưa người. Sau chiến tranh chỉ thấy người
ta đổ lên ngược mua sắn khoai với những bao tải và sọt tre, những anh bộ
đội từ trong Nam trở về bụi đất đỏ lầm, có con búp bê mắt nhắm mắt mở
thò bàn chân hồng hồng như nũm khoai sọ non trên nắp ba lô.
Lân vác
ba lô lách lên tàu và chịu để cho người ta chen mình. Ba lô không có búp
bê chỉ có hai bộ quân phục cũ gói vài cuốn sách, có cái mũ cối là mới
được phát trước ngày ra Bắc, anh ôm vào bụng. Mãi rồi cũng vào được
trong toa lờ mờ 2 ngọn đèn bão lúc lắc lổn nhổn người đứng, người ngồi.
Năm năm đã xa miền Bắc, xa những chuyến chen chúc cách quãng leo tàu hỏa
lên trường học, vậy mà bây giờ con tàu vẫn thế, hôi hám và khàn khàn còi
vọng vào đêm.
Có một cô gái tóc bím, hai bên vai cựa quậy mãi mới đứng dậy khỏi ghế.
- Anh bộ đội ngồi xuống đây. Cô nép cong người sang một bên. Trong bóng
đêm lờ mờ, Lân thấy cô gái dịu dàng đến lạ, mùi thơm cũng rất lạ, anh
chưa thấy bao giờ. Anh ngượng nghịu
- Ấy chết cô cứ ngồi, bộ đội ai lại bắt đồng bào nhường chỗ.
Có tiếng cười khúc khích của những người ngồi bên. Lân không hiểu sao họ lại cười. Cô gái lại ngồi xuống chỗ của mình.
- Thế thì anh đưa ba lô, em ôm cho anh đỡ mỏi. Họ cười anh gọi em là đồng bào đấy.
Lân cũng cười, gỡ cái ba lô đưa nhờ cô đặt lên đùi còn mình thì lùi lại
tay vịn lên thành ghế nhà tàu. Con tàu lắc lư. Chả thể nói con tàu
trườn vào đêm hay là đêm trườn vào tàu. Tất cả lơ mơ như nhung đen, mùi
khen khét của than đốt lò, mùi quang gánh, mùi tóc mùi mồ hôi nươm vào
khoảng hẹp mập mờ nhưng Lân vẫn nhận rõ có mùi riêng của cô tóc bím.
- Ba lô nhẹ tênh thế này sao? Anh cũng ở chiến trường ra đấy chứ?
- Vâng tôi vừa từ Tây Nguyên về.
Tàu đến ga S. Tiếng khàn đục ngái ngủ của người đàn bà cầm cái loa sắt Tây đứng lùn tè giữa sân ga nhắc nhở hành khách xuống tàu. Tiếng loa ở
sân ga mệt nhọc rồi chìm tũm vào đêm. Lân nghiêng người cố ngó ra cửa
sổ, hàng cây bạch đàn nay đã cao lớn vụt qua, anh cố tìm một nét quen
vô vọng. Hơi lạnh ùa vào toa tàu. Lân kéo cái khăn dù thở dài, nhớ một
đêm mùa đông năm năm trước anh đã đi chiến đấu từ cái ga tàu hỏa này.
Cô gái ngước nhìn anh trong bóng tối lờ mờ. Những thân người lắc lư
trong tiếng rì rầm của người, tiếng ken két của bánh xe tàu hỏa. Họ xuống
ga vào lúc gần sáng. Sương trắng trên mặt đường đá lổn nhổn lối ra
đường quốc lộ. Cô gái hỏi:
- Anh về đâu?
- Tôi về trường đại học gần đây.
- À… thế thì …ta lại cùng đường. Cô xuýt xoa kéo cổ áo. Lân đưa cho cô gái cái khăn dù :
- Này cô choàng cái khăn này cho ấm, đừng chê lính hôi nó theo tôi nhiều đêm trinh sát bám địch đấy.
Nếu không có câu nói này chắc chả đời nào cô gái chịu nhận tấm vải dù
choàng lên ngực mình. Cô kéo cái khăn dù, cảm thấy có mùi khét thuốc lá
và cũng như Lân cô thấy một mùi rất khác lạ với mình. Họ đi lẫn cùng
nhiều người về cái trường Đại học trên một triền đồi. Lân không hỏi cô ở
lớp nào hay là nhân viên phục vụ hoặc giả là con một gia đình nào trong
trường. Cứ nghe líu ríu cô kể về trường đã có sân đá bóng ra gần quốc
lộ, nào là trường này mấy năm nay thi vào khó lắm đấy. Nào là đói ơi là
đói. Câu chuyện ríu ro như hai người đã thân quen nhau lắm còn Lân anh
đang hít thở cái hương cỏ khô và hăng hắc lá bạch đàn mà nhiều năm nay
anh xa nó. Cứ thế mải mê đến nỗi lúc chia tay anh vẫn đang mơ màng nhìn
hút về phía lớp mình sơ tán ngày xưa sau dẫy đồi lờ mờ trong sáng sớm.
Lân đi về phía cổng trường, sà vào mấy quán hàng dọn sớm mua hai khúc
sắn luộc rồi ra một gốc cây vừa ăn vừa hút thuốc. Sương lạnh, anh chợt
nhớ cái khăn dù. Thì ra lúc chia tay cả anh và cô gái đều quên. Lân mỉm
cười, nghĩ đến khuôn mặt cô gái anh cũng chưa nom rõ rồi lại nhớ cái vải
dù từng nắm cơm mang lên chốt, từng làm chăn đắp lên mặt những lúc ngủ
rừng. Anh tự nghĩ an ủi cái khăn về với chủ mới chắc là ý trời.
***
Lân về học năm thứ 3. Anh không kịp nghỉ ngày nào mà lên lớp luôn. Chả
bù mấy đứa về năm thứ hai, khối môn đã thi rồi nên được miễn tha hồ chơi
dong nhan. Trường bây giờ rất nhiều bóng áo xanh bộ đội. Những buổi lên
lớp nhìn những khuôn mặt sốt rét lẫn trong bao nhiêu khuôn mặt rạng
ngời của các bạn trẻ cứ như một nồi xôi đỗ.
Vừa ra khỏi chiến
trường đã ôm ngay cái bài tập lớn về Nguyên Lí Máy. Đêm đêm chong đèn
ngồi rút thước Logarits và cắm đầu vào vẽ. Một lần có cái bóng đèn 100 W
chập nổ tưởng như lựu đạn địch ném vào, Lân chúi ngay đầu vào gầm bàn.
Các bạn cùng phòng cười ré lên. Lân mang tên” Lân bóng đèn” từ ấy. Những
người bạn học đâu có hiểu cái phản xạ của người lính chiến vừa ra khỏi
chiến trường. Họ cười. Kệ họ. Lân nghĩ thế.
Vài tuần trôi qua, một
chiều thấy một người con gái đi từ lớp năm thứ nhất qua cửa kí túc xá.
Cô gái tóc bím? Lân ngờ ngợ nhưng không dám hỏi vì thấy cô cầm tập giáo
trình lên lớp. Cô gái chợt nhìn thấy Lân, dường như cô nhận ra anh nhưng
rồi lại bước đi. Cái bím tóc buông xõa bờ vai tròn lẳn trong tấm áo len
của ngoại. Lân quay ra hỏi bạn cùng lớp. Họ bảo cô giáo dậy toán năm
thứ nhất đấy. Học Tổng Hợp Khác- Cốp mới về. Thì ra Lân đã quen một cô
giáo mà lại là cô giáo học ở Tây về. Anh đi vào phòng, xốn xang quá. Bản
vẽ Nguyên Lí Máy nhập nhòe. Lân vỗ vỗ mấy cái vào mặt rồi cúi xuống tô
những đường chì nhanh nhánh.
Nhoáng cái đã sang năm mới. Các
chàng bộ đội nay đã hòa nhập với không khí ồn ào như chợ vỡ ở cái khu kí
túc xá mấy ngàn sinh viên này. Họ vẫn mặc quân phục lên lớp có lẽ do nó
bền và lại phiếu vải chưa làm xong cho lính xuất ngũ. Hầu như số bộ đội
về học đều đến tuổi lấy vợ mà chưa có vợ. Vài tháng ăn cơm trường đại
học nước da bớt đen, môi bớt tái nên cái vẻ phong sương pha lẫn học trò
trông anh nào cũng dễ gần. “Lân bóng đèn” được bầu làm lớp phó học tập.
Mang tác phong quân đội về với sinh viên cũng không phải là dễ. Nhưng
các chú học trò thấy đàn anh chăm chỉ học tập quá nên cũng bị cuốn theo.
Lớp nào đông bộ đội là phong trào lên hẳn. Mồng tám tháng ba năm ấy, ở
lớp Lân chỉ có hai cô gái vì thế thủ tục thăm hỏi chỉ nhoáng cái là
xong. Hàng trăm chàng trai tận tình thăm hỏi một cô gái cứ xầm xập từ
chiều đến tối. Lân nhớ tới cô giáo tóc bím. Cô giáo mà Lân chưa có dịp
thăm hỏi kể từ mấy tháng trước.
Cô giáo Lương học ở Khác Cốp về
mới lên lớp năm đầu tiên. Là học sinh Hà Nội đi du học năm 1969. Năm ấy
cô Lương đi bằng tàu thủy từ Hải Phòng sang Liên Xô. Số cô rủi hóa may.
Các bạn đi đợt đầu qua đất Trung Quốc, còn cô và các bạn đi sau không
được đi theo con đường ấy nữa mà lại đi tàu thủy. Nửa tháng trời trên
biển thật là kì thú. Đời người chắc chỉ một lần như vậy. 5 năm học toán ở
một trường đại học danh tiếng, cô về nước giữa lúc cuộc chiến chống Mỹ
vào hồi cuối cùng. Mang va li đến nhận việc ở một trường đại học miền
núi, Lương buồn rười rượi. Chiều hôm đầu tiên đến trường cô nhìn rừng cây
bạch đàn trên một vùng cỏ úa, nhìn sinh viên cầm bát đi ăn cơm ở một
nhà ăn lợp lá có những cái chảo nước sôi lúc nào cũng ám khói. Cô muốn
bỏ về Hà Nội đi tìm một nhiệm sở khác. Từ hôm gặp chàng sinh viên đi
lính về, Lương lại bỗng nhớ về một người bạn mà cô chưa hề biết mặt.
Hồi ấy có phong trào nữ sinh các trường đại học viết thư gửi ra chiến
trường động viên bộ đội. Các lá thư từ hậu phương của các cô gái gửi ra
tiền tuyến đều được đóng vào những bao gạo chuyển vào chiến trường. Bộ
đội đi lấy gạo về tập hợp những lá thư và mỗi chiến sĩ được cấp trên
phát cho một lá. Ai chưa nhận thì đợi đợt sau, kiểu như cơm không ăn gạo
còn đó. Bao nhiêu tâm sự của các cô gái được người lính mang theo giữ
gìn như tâm tình của người thân của mình. Họ cũng gửi những dòng chữ vội
vàng đầy khói súng về cho các bạn gái mà chưa hề biết mặt. Lương có một
lá thư của một người lính tên Chiến quê ở Mê Linh, anh kể anh vừa ở
chiến dịch đường chín Nam Lào. Những Lá thư của anh thật hóm hỉnh và rất
gọn gàng khúc triết.Lương biết anh cũng là sinh viên năm thứ 2, đi bộ
đội chỉ có điều anh không bao giờ nói là anh học ở trường nào. Anh cứ
bảo rồi ngày em về nước em sẽ biết về anh. Khi đơn vị anh rút ra Hà Tĩnh
kết thúc chiến dịch đường Chín Nam Lào, thư anh kể anh sẽ còn đi vào sâu
hơn nữa vì chiến trường đang vào hồi quyết liệt. Có một lá thư Lương
nhận được trong ấy có một cánh hoa sim ép khô từ Kì Anh Hà Tĩnh …”Anh
viết … em thân mến, có một hôm bọn anh lấy gạo trên sông Xebanghieng.
Những bao gạo trôi trên sông dạt vào bờ, đơn vị nào vớt được bao nào thì
mang về bao ấy. Trời run rủi cho tiểu đội anh vớt bao gạo sọc xanh trong
đó có 5 lá thư. Anh may mắn có thư em. Em là học sinh Hà Nội, anh ở nhà
quê Vĩnh Phúc. Chuyện cứ như tiểu thuyết em nhỉ, mong rồi có ngày ta gặp
nhau lúc đất nước giải phóng và em về….Vài ngày nữa anh sẽ lại đi sâu
vào chiến trường, gửi em bông hoa rừng nơi anh đóng quân trước ngày đi
chiến đấu, về nơi xứ tuyết…”
Chuyện tình cảm mỗi con người cứ như từ
trên trời rơi xuống. Muốn cũng chả được, rẫy ra thì nó cứ vận vào thật
chặt. Lính chiến trường bỗng nhiên có chỗ bấu víu thiêng liêng. Cứ lúc
nào mệt mỏi, lúc nào khó khăn lại mang lá thư của một cô gái nào đó ra
đọc là thấy mình khỏe hơn lên. Lời động viên của người khác giới nó mạnh
mẽ hơn nhiều lần lời hô hào chính trị tư tưởng. Lính ở trận tiền chỉ
cần có thế, đơn giản vô cùng, đơn giản đến mức trong sáng cực đoan.
( còn tiếp)
Subscribe to:
Posts (Atom)