An
Chương 1
1
Nước
lụt đã rút hết ra khỏi làng. Hơn một tháng ngâm phù sa đỏ ong ỏng, bây
giờ làng mạc như ruộng mạ bị trâu xéo ngang xéo dọc. Vườn tược rau cỏ lá
cây, khoai dáy thối khinh khỉnh. Nắng chói chang như mùa hè, nắng chát
lên những trái bưởi xót lại trong vườn một miếng nâu đỏ như má gái quê
bôi son Hàn quốc. Một thiếu nữ sắn quần vác cái cuốc lội lép nhép, má ưng
ửng mà cặp chân mẫm mạp nước phù sa thấm lên bám vào lông tơ màu hồng
mươn mướt. Cái bụng chân trông bân bẩn khiến nó càng sexy. An đấy! An đi
làm cỏ sắn một mình .
Tháng tám âm lịch sắn đã xuống củ. Chả cần
làm cỏ sắn nữa nhưng ở nhà buồn lắm. Ruộng thì vừa rút nước xong chưa làm
được gì. Ngồi nhà mà thở dài nhìn làng quê tan hoang với thủy tặc ư?
Chịu đói chịu buồn mãi sao. An nhủ, buồn không chết, đói mới chết. Thế
thì phải đi vào nương sắn, cái nương sắn này là cứu tinh cả nhà năm nay.
Phải giữ lấy nó và phải làm cho nó khác nương nhà người.
Nhưng mới
sới vài nhát cỏ mồ hôi dìn dịn, má dìn dịn, nách cũng dìn dịn, cái cảm giác nhồn nhột
trong lần áo ngực khiến An buông cuốc. Nắng chấp chóe trên tán lá cọ lẫn
tiếng líu chíu đàn chim Hít đậu trên những buồng quả cọ còn non. Một mình
giữa nương sắn vắng, An lật cán cuốc nằm xuống đất rồi ngồi lên. Lá sắn
xòe như những bàn tay trên đầu, nắng loang lổ má, loang lổ mớ tóc dài của
An. Nhìn xoáy vào bụi hoa mua trên đồi mà hình như An chả nhìn thấy gì.
Thế là anh Thường đi đã một tháng. Từ cái đêm trăng trên đồi cọ nhìn ra
đồng ngập mênh mông nước đến nay, An như mộng du. Đồi cọ đêm ấy như một ốc
đảo không có người, chỉ có trăng tưới miên man trên cỏ và lá rừng. Anh
Thường phanh áo của An dưới trăng ngậm hạt đậu trên ngực, khiến rừng cọ
bỗng lặng ngắt và trăng thì chới với. Đêm ấy khuya, lắm sương ướt cả tóc
cả lưng anh Thường. An xoa hai bàn tay trên lưng anh nhìn ông trăng bơi
uể oải. Chưa bao giờ An nhìn rõ chú Cuội đến thế.
Trưa nắng gắt,
áo đẫm mồ hôi. An lùa tay vào ngực lau những giọt nước ấm rực trên bầu
ngực của mình. Anh Thường ở đâu bây giờ nhỉ? Anh ấy chả giống mấy đứa
trong đội thủy lợi tí nào … sao mà cái đêm hôm ấy gió mát mà mình đổ mồ
hôi khiếp thế? Nằm ngửa nhìn trăng rồi nhắm mắt lại thấy những giọt mồ
hôi bò trên ngực rân rân buồn. Năm ngoái gặp An, anh Thường chỉ cười
hỏi em còn đi học không? Anh chả nói chuyện hay để ý đến An. Thấy anh học
dưới Hà Nội về, toàn đi chơi với các anh chị sinh viên về nghỉ hè, An
chả dám bắt chuyện.Chỉ đến cái hôm vỡ đê, lúc ấy anh Thường cũng đi đắp
đê trong mấy ngày mưa tầm tã, anh nhìn An trầm mình dưới nước kéo những bó
bổi chèn vào chỗ nứt trên đê. Lúc ấy chả còn ai nghĩ đến áo quần rách
toác đến tóc tai bùn đất cứ lăn vào cứu đê. Thân hình An dính chặt vào bộ
áo quần như đang sắp bung ra. Ngực An phập phồng hí hóp môi tái lại mà
mắt rõ long lanh. An biết anh Thường nhìn mình đăm đắm.Đêm hôm đê vỡ rồi,
ai cũng mệt bã bượi, anh dắt An đi tắt mấy quả đồi cọ về xóm.Qua rừng cọ
lớn, anh kéo sát An vào, mùi mồ hôi và nước mưa của cả hai đứa nồng
nồng. An nhớ cái mùi ấy thế.
Mấy tháng rồi chả thấy thư anh Thường
về. Sau hè, bạn anh ấy cũng đi hết. An vẫn đi làm thủy lợi xã vì nghỉ học
đã một năm rồi. Nhìn mấy đứa cùng xóm gạo đùm chai tương đi học cấp 3
cũng nao nao. Nhưng nỗi buồn chả được lâu. An chán học. Bạn bè cùng tuổi
tóc loe hoe ngực kèm kẹp lép mà An thì má cứ ửng lên như quả hồng
dấm sắp chín. Ngực căng thây lẩy như quả bưởi tháng 5. Mỗi lần ngó vào
vại nước thấy cặp vú rung rinh. An thích ngắm mình. Chỉ một mình An mới
thấy sướng. Hễ cứ sờ tay lên bầu vú là bao giờ An cũng nhớ anh Thường.
Hôm
nọ anh Phiện ở Yên Bái về chửi lầm lầm. Mày không thấy bọn thanh niên
nó viết bậy ngoài sân kho à? An bảo thây kệ chúng nó, toàn lũ nứng cổ
họng ấy mà. Anh Phiên nó giật mình, em gái của mình nanh nọc thế sao?
Phiên đã thoát li ra khỏi làng mấy năm nay từ lúc con An còn 10 tuổi
nay nó mới 16, nó chả giống những đứa trẻ 16 ở làng, nó nhanh nhẹn nó
duyên dáng và mạnh bạo. Phiên bần thần thương em vất vả mà cũng lo cho em
…
Có một trưa, đào đất khai mương đồng Chùa ì ọp. Sợ nắng,sợ đỉa
lại sợ tàu bay đến thả bom. Thế mà An chả nghĩ đến điều gì trong đầu,
chỉ nghĩ đến anh Thường . Mồ hôi thấm đen trên tấm áo gụ chỉ chừa cái
hình áo coocxê. Trai làng và cả những ông trung niên mặt đỏ lên dưới
nắng. Lúc nghỉ giải lao họ chui vào gốc nhãn ria xóm hút thuốc lào còn An
ngồi bên bờ ruộng thả chân xuống nước kì cọ thật chậm. An thích thế . Cứ
nhìn từng sợi lông tơ ở bụng chân trắng hồng nổi lên mặt nước, cảm giác
mơn man chạy trên ngực trên lưng. Lại có lúc An rất thích nghe giọt mồ
hôi lăn rất nhẹ trên bầu ngực mình. Bỗng máy bay ù ù tới, nó bay vút qua
nhào xuống cắt bom phía Yên Bái. Mấy ông thợ cày nhảy ùm xuống mương đồng
Chùa nấp vào bờ cỏ, ti hí mắt thở hổn hển. Có người gọi :
- Kìa con An, An ơi xuống đây.
An
thây kệ. An ngó lên giời, lọp đọp mấy chấm trắng pháo cao xạ bắn lên.
Bom nổ ùng ùng xa lắm. Trống báo yên, mấy ông đàn ông leo lên bờ.
- Mày muốn chết hả An? nhỡ nó thả bom ga mình thì sao ?
An
cười, nó thả thì chắc gì đã trúng. Mấy anh nông dân quần đùi ướt dườn
dượt dính bết vào đùi, bùn và bèo tấm in hằn lên bộ súng đàn ông của họ.
Nước rỏ tong tong từ cái gấu quần đùi nhếch nhềnh nhệch. An chợt nhớ đêm
trăng trong đầm Cả với anh Thường .
Anh Thường học năm thứ hai
đại học ngoại ngữ. Nhà anh ấy với nhà An cách nhau một xóm. Ông ngoại An ở
gần ngay nhà anh ấy khiến anh biết An từ lúc còn thò lò mũi. Hè rồi anh
về, lúc ấy chưa vỡ đê, gặp anh An hỏi như ngày còn bé :
- Anh có truyện tranh cho em mượn đi. Anh Thường bảo lớn như cái bồ còn xem truyện tranh?
An đi bên anh cười khúc khích :
- Em chỉ xem có hình thật thôi, chữ nghĩa em kém lắm. Kiểu như giáo cụ trực quan mà thày giáo vẫn dậy í mà.
Anh
Thường nhìn lên cặp má hồng dưới nắng đầy lông tơ của An lẩm bẩm, quái
sao con gái ở làng da nó hồng kiểu gì ấy nhỉ? chả giống bọn sinh viên lớp
mình cứ trắng xanh tai tái.
Anh bảo với An mùi của em chỉ có về
quê mới thấy. An lạ quá hỏi lại. Mùi gì ? anh Thường cấu vào má An nói
mùi này, mùi khói bếp. Đêm ấy lần đầu tiên An thấy mùi con trai. An giữ
đầu anh chặt trên ngực. Thấy rõ anh đang ngậm núm vú từ bên ngoài lần áo.
Mãi về sau An cứ nhớ anh Thường bảo ngực mình có mùi khói bếp.Mùi khói
bếp mà anh thích. An ngúc ngắc cái đầu chịu không thể hiểu anh.
Hôm
anh Thường lên trường, An bơi thuyền đưa anh dọc đường tàu hỏa xuôi về ga
dưới. Con đường sắt như con đê chắn sông Hồng khúc vỡ khúc lành. Cứ
chỗ nào đường sắt bị vỡ, nước xoáy ào vào đồng, nay lại òa òa xoáy đổ ra
sông. Bao nhiêu nhà cửa súc vật cây cối trôi đi phập phều, nước loang
loang màu gạch cua đỏ nhòa nhoẹt. Thuyền lướt trên những ngọn chuối, những
bãi mía, chỉ giơ tay là hái được những trái bưởi vàng, có nhà ai đang
đun bếp trên một tấm ván kê trên nóc nhà . Những người ngồi trên mái nhà
nhìn hai đứa bơi thuyền đi xuôi như những kẻ lưu lạc khốn khổ. Anh đi
rồi, An bơi quay về nặng nề, phần vì ngược nước, phần vì sợ mất anh, nước
mắt và mồ hôi cay trong mắt. Lúc có anh, An cứ cười hơ hớ, cứ nhơn nhơn
thế mà bây giờ An thấy mình yếu đuối. Mệt quá, An kéo thuyền buộc vào một
cành nhãn đầy những quả và kiến đen bu kín. Cành nhãn đen kịt những kiến
những ong trú ngụ. An phập phồng, nỗi buồn thân gái của mình cũng
mỏng manh như con kiến mùa lũ bất chợt. Thế mà hôm ấy An vẫn không biết
là anh vội về trường để nhập ngũ.
Ở làng có mấy anh hay
chơi với nhau An đều biết. Anh Ngũ học ở Bách Khoa nhà gần hơn nhưng anh
ấy hiền quá, it nói quá. Mùa hè nào về anh ấy cũng thổi sáo ngoài đình.
Nghe bâng khuâng, An nghe như gọi An vậy. Ấy thế mà gặp anh Ngũ, An
cứ ngài ngại. Anh Ngũ cũng ngại. Chả hiểu ra làm sao? Sau hôm anh Thường
đi, tình cờ An gặp anh Ngũ. Anh Ngũ hỏi :-
- Sáng qua đưa Thường đi à? An vâng !
Ngũ nói khẽ :
-Thường đi bộ đội đợt này đấy. Đi đông lắm, anh thì vẫn không thấy gọi .
An
tủi thân lắm .Thường không hề nói với An rằng anh ấy đi bộ đội. Đêm cuối
cùng gặp nhau anh Thường và An lại bơi thuyền vào đầm Cả. Anh ôm An và
cứ lặng im. Bỗng nghe có tiếng bìm bịp kêu, anh Thường bảo đi đường mà gặp
bìm bịp chạy qua là rủi lắm. An cười cấu vào bụng anh và bảo :
-Thế thì ngày nào em cũng rủi. Quê mình bìm bịp đi qua đường bình
thản như gà, chỉ khi có người đến gần nó mới bay. Khiếp, đi làm cỏ sắn
toàn nghe bíp bìm bịp. Khiếp khiềm khiệp.
Anh Thường cười buồn
buồn. An lần tay trên ngực anh,cắn lên vai trần của anh. Anh bảo An, vị
thành niên mà đáo để. An hỏi sao em lại là vị thành niên? Anh Thường bảo
em chưa là người lớn. An bĩu môi, em lớn hơn khối chị ở làng. Đây anh xem
An kéo tay anh, bàn tay anh đặt lên ngực An nóng như lửa…trăng nhợt nhạt
trôi trên rừng cọ đêm thẫm khuya.
Nước rút rồi mà lúa
vẫn chưa hở ra. Kiểu này thì đói lắm đây. An thấy Ngũ hiền, thấy anh
thật dễ thương, dễ gần nhưng anh ấy không giống anh Thường. Đêm đêm thanh
niên làng ra ngồi ngoài đình, xung quanh là nước trắng phật phờ chưa
rút hết sau trận vỡ đê. Ngồi bên Ngũ, An thèm cái bạo liệt ở Thường.
Mai là ngày 2/9. Năm nay vỡ đê lụt cả làng nên xóm này đến xóm kia toàn
là chèo thuyền và đẩy mảng nứa. Người người áo quần ướt rồi lại khô nồng
khú lên. Thế mà vẫn trống cà rình inh om vẫn tiếng loa phát thanh của xã
trên ngọn cây nhãn, trên gò Cao. Loa đọc bài xã luận của báo Nhân Dân,
đọc bài của huyện yêu cầu nhân dân phải tập trung khắc phục lũ lụt, động
viên con em tòng quân. An nghe tin chiến thắng ở trong miền Nam rộn rực
lại nôn nao nhớ Thường. Hôm ấy anh Ngũ cũng cứ ngồi im bên An, anh không
thổi sáo nữa, đêm ở quê nước vàng ánh lên, đồng làng mùa lũ còn sáng hơn
cả ánh trăng. An thấy trăng hôm ấy nhợt nhạt, còn anh Ngũ cũng nhợt nhạt
như lùm chuối nổi lên ở bãi sân đình. Những tàu lá chuối láng phù sa như
cái bánh tráng chưa kịp khô. Anh Thường ở tận đâu đâu rồi? An lẩm bẩm.
2
Sớm bửng mù tinh làng xóm đã ra đồng. Sau lũ lụt tràn ruộng nào
cũng cao lên khiến bờ ruộng thì thấp xuống, nhoe nhoét bùn phù sa. Thương
cho con người một thì thương cho lũ trâu mười. Bùn thụt đến gần bụng,
mũi cầy răng bừa cứ ăn miết xuống khiến con trâu nào cũng lặc lè lê chân
không nổi. Ông Chủ nhiệm hợp tác xã thì đi hết tràn này sang tràn khác, thúc
hối xã viên khẩn trương để cấy vớt. Biết là đã sang tháng 7 âm lịch, cấy
lúa cũng chả ăn thua gì nhưng huyện bảo thế thì cứ phải làm. Không làm là
chống nhà nước, là không vì miền nam ruột thịt. Vừa nâng cái bừa lên cho
con trâu nó đỡ nặng, bà Hiếu vừa nói rõ là to :
- Bây giờ thà
gơ khoai lang và trồng rau, trồng ngô ba tháng lấy cái ăn cho qua đận đói
còn hơn lao vào cấy lúa, có mà cấy lấy rơm cho trâu.
Ông Túc đội trưởng đang bừa lối sau nói với lên:
- Rõ cái nhà bà này, không nghe quán triệt của huyện, tỉnh hay sao?
Bằng mọi giá phải cấy. Phải có lúa, phải tập trung sức người, sức của cho
miền Nam, bà không biết hay sao? Rõ là nhà bà không có ai đi bộ đội nên
không thấy thương người
Bà Hiếu điên lên :
- Này tôi
nói cho nhà ông biết, tôi không có con đi vào miền Nam nhưng con tôi
cũng sản xuất thuốc tiêm cho bộ đội đấy nhá, còn hơn nhà ôngm con trai đại
học chả chịu đi bộ đội. Ông xem đấy anh Thường nhà ông Vượng cũng bỏ cả
đại học mà đi đấy, còn cái anh Ngũ nhà ông, tôi vẫn thấy thổi sáo ve ve
ngoài đình đấy thôi. Còn ông bảo nhà tôi không nghe huyện, nghe tỉnh, tôi
hỏi ông có ông tỉnh, ông huyện nào đói không hử? Rõ là …là
Lúc ấy An đang vạ bờ ruộng quay sang nói rõ là to:
-
Bầm có thôi đi không? Việc thiên hạ đâu đến lượt bầm mà vỡ nồi
nhà mình. Bà Hiếu im. Ông Túc giật mình, ra cái con bé này nó quá là đáo
để. Con gái phải thế mới làm dâu trưởng được. Ông nhìn nó, nó phổng lên
nhanh quá, nó đầy những là sức lực, con mắt nó, giọng nói nó có tướng làm
thủ lĩnh. Rồi ông lại nghĩ tới thằng Ngũ hiền lành, yếm thế nhà mình.
Trong thâm tâm, ông cũng như bà Hiếu nhưng vì ông là đảng viên, là đội
trưởng nên nín nhịn.Những cán bộ gần ngồi bệt như ông nín nhịn quen rồi.
Con
đường tàu hỏa Hà Nội- Lào Cai sẻ vào giữa làng Hạ thành một đường kính, ở
tâm đường kính là giữa làng. Giữa làng thì đương nhiên có sự khác biệt
ria làng rồi. Hàng bán nước mắm cá khô ở đó. Hàng lò rèn, hàng
nhuộm, hàng cúp tóc cũng ở đó và có một cái điếm để các nhà chức trách
tuần phòng trị an. Tựa vào quả đồi có trường tiểu học là một cây đa và
bãi cỏ rõ thật mịn làm nơi mít tinh. An nhớ xa xưa lắm, có một cái sân
khấu cột gỗ mái lá để diễn tuồng, diễn chèo, là nơi thanh niên tập múa son
mì ngày mồng hai tháng chín, ngày rằm trung thu. Thời ấy mới hòa bình vài
năm. Những người tản cư từ dưới xuôi lên chưa mấy ai về, làng An còn
đông vui lắm.Ông thợ giày cặm cụi ngồi ở gốc vông sửa những đôi giầy
Giôn, những đôi Bát kết. Ông thợ bạc có cái đèn xì, ngọn lửa bé xíu xanh lè,
chuyên kéo những cái vòng trẻ con. Khoái nhất là ông kẹo kéo. An và đám
bạn túm đen túm đỏ quanh ông nuốt nước bọt nghe ông rao : ké…éo đê
Cái
xóm giữa làng này được gọi là xóm Làng. Đứng đầu là ông trưởng xóm. Nay hòa bình rồi, trưởng xóm thường là có chân chi bộ. Rồi lên hợp tác xã
người ta biến trưởng xóm thành đội trưởng. Vào hợp tác xã cũng vui nhưng không
vui bằng tổ đổi công. Ngày ấy tổ đổi công không có cấp trên dưới chỉ túm
nhau vào quanh một ông tổ trưởng đổi ngày, làm giúp luân phiên từng nhà
nên vui lắm. Bao nhiêu chuyện vui buồn trong nhà nay mang cả ra tổ đổi
công mà chia sẻ. Con người mới đi lên phới phới. Hồi ấy chả cứ gì quê
An, đâu đâu cũng văn nghệ, đâu đâu cũng làm sạch xóm làng, diệt muỗi, diệt
chuột ăn chín uống sôi. Lũ trẻ nhỏ cứ mỗi tuần vào chiều thứ 6 đi cổ
động. Đi cổ động là xếp hàng, đội ngũ chỉnh tề. Trống cà rình đi trước,
người chỉ huy cầm cái loa bằng ống sắt tây mà hô to những câu khẩu hiệu.
An nhớ lắm và thích thú những câu hô khẩu hiệu của anh Thêm Quỳnh Toét
mắt. Anh cầm cái a lô giọng sang sảng :
- Tích cực diệt muỗi diệt chuột là thiết thực bảo vệ cuộc sống của nhân dân !
Cả đoàn hơn trăm đứa trẻ hô to : Tích cực tích cực.Anh Thêm Quỳnh lại hô:
-Toàn dân Thi đua làm sạch xóm làng! Lũ trẻ lại hô theo : Thi đua thi đua! Kết thúc bao giờ cũng phải có câu kết :
- Hồ Chủ tịch muôn năm. Muôn năm muôn năm
Rồi
là trống cà rình gõ dồn dập cuối lời hô. Cứ thế, đoàn cổ động đi quanh co
hết xóm trong xóm ngoài. Vui đáo để. An đi cổ động nhìn lũ trẻ cởi
truồng chưa đến tuổi được đi cổ động cũng vênh váo ra trò. Anh Thêm Quỳnh
toét mắt ngày ấy là thần tượng của An rồi. Cứ nhớ lại cái alô bằng sắt
tây là nhớ đến một thời xóm giữa làng An, lại thấy nhớ anh Thường.Ngày ấy
anh Thường chả ngó đến lũ bé như An. Còn An cứ nhìn anh Thêm Quỳnh
toét mắt mà ao ước lớn lên mình sẽ làm người thật là nổi tiếng.
Ông
Túc đuổi con trâu ngang qua đình đúng lúc An đang lấy cái cuốc nạo nạo
mấy dòng chữ viết bậy trên tường đình. Thật ra thì An cũng thinh thích
mấy dòng chữ này nhưng vì đang là đoàn viên thanh niên nên phải gương mẫu
mà phải xóa nó đi. Ông đội trưởng ngển lên hỏi :
- Cháu nạo cái chữ gì đi thế hử?
- Dạ đứa nào nó viết bậy
Ông Túc bảo An dừng lại rồi cố đọc những dòng chữ loe loét:
“ Nhà ông Vang có bụi tre to
Có cô Năng lớn chả cho lấy chồng
Ai ai đến hỏi cũng không
Có anh đóng cối đến bằng lòng ngay”
Ông
Túc bật cười. Mẹ cha cái con nhà nào … mà nó viết cũng đúng. Cô Năng đi
theo tay đóng cối dạo về đâu dưới Nam Định rồi. An lững thững vác cuốc
về theo sau ông Túc, vừa đi vừa nghĩ tới chị Năng. Chị Năng đẹp gái phổng
phao má cứ đỏ như má gà mái đến kì chịu sống. Đi làm chị hát chèo nghe
chua loét mà lại hay hát. Lũ thanh niên làng chê chị ngực nặng quá đi
không nhanh. Chị chửi cho. Chị bảo tao thèm vào cái lũ chúng mày, đít phệt
gio bếp. Tao á, tao phải lấy chồng nhiều tiền, phải có xe đạp, đồng hồ. Thế
mà cái anh đóng cối đến ở xóm mình mới mươi ngày chả thấy xe đạp, đồng hồ
đâu mà chị đã đi với nó. Ra là đóng cối cũng kiếm khá tiền thì phải. An
mơ một ngày nào đó An sẽ làm ra nhiều tiền chả phải xin thằng nàotrông
vào thằng nào sẽ khối thằng theo mình. Chợt An lại nghĩ, rồi nay mai
anh Thường về, anh sẽ làm giáo viên đại học, An sẽ làm nhiều tiền cho anh
thấy An giỏi.An nhìn hút ra ga tàu hỏa, tiếng còi tàu vọng qua đồng tu
tu. Đến lối rẽ vào cổng, ông Túc ngoái lại :
- Này chi đoàn thanh niên đã họp bàn về làm phân xanh bón ruộng chưa hả cháu?
- Dạ nghe đâu tối nay họp bác ạ.
Nói rồi An chào ông Túc đi về còn nghe ông nói với theo:
- Các cô các cậu là khẩn trương lên đấynhá.
3
Trong
vòng năm năm mà làng Hạ chịu tới ba lần ngập lụt.Năm 66 vỡ đê toàn là
phù sa ùa về. Năm 68 vỡ đê toàn là cát càng phủ kín ruộng đồng. Năm nay
lại vỡ nữa, nước mênh mang cả một tháng trời, vườn khoai vườn rau thối
nhung nhủng. Những rặng bưởi ổi ven đồi vàng ênh rồi rụng lá. Nước rút
cạn ,đứng trong nhà nhìn ra đồng cứ như nồi canh cua, vang váng mỡ. Người
người ngao ngán ngửa cổ nhìn giời lại lo nắng. Tháng tám âm lịch mà nắng
như tháng sáu sờ vào những quả bưởi cành la bỏng như sờ vào tích nước
chè. Nhà nhà đã ăn khoai nước. Ăn sắn non còn khoai sọ cố để tháng mười
âm mới dỡ.
Bà Hiếu ngồi tước mớ ngó khoai nước để chiều lại
nấu canh với quả dọc. Ngó khoai nước qua vụ lụt to mầm mẫm. Mấy hôm rồi
chỉ có canh ngó khoai. Ngứa nhâm nhẩm trong họng. Bà Hiếu cứ khậm khoạc
như muốn ho. Nhà có hai mẹ con, niêu cơm độn sắn và nồi canh đặt tròn
trõn giữa mâm. Bữa cơm trưa, mồ hôi rỏ cả xuống bát, bà nhìn con gái
má rừng rực đỏ loáng mồ hôi.
- Rau muống ở ruộng 5 phần
trăm, con cắt hết đi lấy phân chuồng với gio bếp đổ xuống một lượt cho nó
nẩy lên để lấy cái mà ăn.
- Vâng, con làm rồi mẹ không phải lo
Bà Hiếu lườm con gái.
-Tôi không nhắc, dễ chị biết đường mà làm,à mà ổ trứng mười hai quả sao còn có hai? Cô lấy bán đi à?
- Vâng con xin chục trứng mua áo.
Bà Hiếu vằng lên :
- Xin, nay xin mai xin lại cooc hả ? naycooc mai cooc. Bà nhìn vào
bộ ngực thây lẩy của An ngưng giọng lại, nuốt đánh ực cục nước bọt đang ứ
trên cổ. Hừ, bây giờ cứ cooc xê cooc sít, ra vẻ kín đáo giữ gìn mà quá
là mời người ta xơi. Đàn bà con gái gì mà vú vê cứ vênh vênh lên,cooc xê
nhọn hoắt cứ muốn chọc vào mắt ta, cứ chêu ngươi đàn ông.
An cười
khinh khích. Không chêu thì ai nó lấy hả mẹ?Mà thời bây giờ nó khác
thời ngày xưa. Không mặc thì đi cấy ruộng sâu cúi lên,cúi xuống nó cứ tì
tõm ai mà chịu được. Bà Hiếu xùy xùy mấy con gà nhao vào tận mâm cơm,
nguýt.
- Liệu đấy có thân thì giữ.
Nhìn đứa con gái
đang kì phổng lên bà Hiếu lại nhớ ngày xưa bà cũng ở tuổi ấy bà làm lẽ
ông lí Phi.Ông lí Phi hơn bà những hai chục tuổi, nhà giàu mà nghiêm
khắc. Về làm dâu, bà hơn hớn thịt da, mặt mũi mà bị kìm hãm vì bà cả. Bà
rừng rực, người như có lửa trong ngực, có lửa cháy lên tận cổ, bà xay lúa
giật đứt cả giằng cối. Ông lí Phi phải làm cái nhà riêng cho mẹ con bà, bà
mới chịu. Gần sáu mươi rồi thân hình sổn sề nhưng bà vẫn khỏe. Đám con
chồng, lớn lên đi kháng, đi công tác thoát li hết, họ gọi bà là dì
béo. Ông lí Phi từ chỗ làm phó lí, rồi làm kháng chiến, rồi làm phó bí thư
chi bộ, chuyện hai vợ chả ảnh hưởng gì tới chi bộ. Tập trung cho kháng
chiến, con người hóa ra gần nhau thân thiện với nhau hơn. Hòa bình vài
năm ông nghỉ, ông nghỉ vì nhẽ hai vợ, vì đã từng là phó lí. Hòa bình rồi
bao nhiêu cái xấu, cái hủ hóa của con người được mang ra xem lại. Ông chả
buồn làm mấy, người có chữ nho, có quốc ngữ từng chỉ huy cả du kích, dậy
con đến nơi đến chốn ở làng này được mấy ai. Ông loanh quanh vườn sau, ao
trước, thỉnh thoảng cầm cái quạt lá cọ chiều tối lên với bà. Bà âu yếm lắm
với chồng, cút rượu con cá khô, đấu lạc lúc nào bà cũng để sẵn đợi ông
lên.
Chập tối bà ngồi ngoài gốc mít dội nước ào ào bằng cái gáo ống tre nói với vào:
- Mẹ quên mất. Con Năng nhà ông Vang nó về, nó nhắn mày sang nhà nó đấy.
Chập
tối An sang nhà chị Năng, đứng ngoài ngõ gọi khe khẽ. Năng im thin thít
đi ra, kéo tay An lên gò sơn. Năng trải cái áo mưa lên gò, hai chị em ngồi
bên nhau nghe chó sủa ong óc dưới xóm nhà. An nghe mùi lá bưởi và bồ kết
từ tóc Năng ngát sang cổ áo Năng vẫn ướt ngân ngấn có mồ hôi.
Năng kéo tay bảo An:
- Mày xem ngực chị có cứng không? An ngạc nhiên thấy bàn tay Năng kéo tay mình đặt lên bầu vú đã phanh trần từ lúc nào.
- Eo ơi chị này.
- Mày sờ xem nào, đấy nắn xem có cưng cứng không? An lần mần bóp
lên ngực Năng, bầu vú ấm nóng như quả bưởi nướng có cục cưng cứng nơi đầu
núm
- Ờ ờ cứng, mà ti chị to khiếp lên được.
Năng bảo:
- Của quí nhất của chị em mình đấy mày ạ.Thằng đàn ông nào chả
thích ngực to. Nhưng chúng nó sợ không cứng tức là nhẽo tức là bị nhiều
người khác sờ mó. Đàn ông họ tinh lắm. Cẩn thận em ạ, họ mà chê thì tiếng
lan ra ngoài khổ cho mình. Vừa nói chị Năng vừa mân mê đầu ti của An.
Có dòng điện chạy giật lên gáy An ưỡn người lên:
- Khiếp nhà
cái chị này. Năng cươi hí hí.Đời con gái ngắn lắm cô ơi, sáng nở tối
tàn ấy mà chả ai thương mình cả đâu, mẹ già lại càng không thích nhìn con
cái phởn phơ. Tự thương lấy mình thôi em nhá.
Lần đầu tiên An
được nghe có người nói như vậy. An nể chị Năng quá. Chị mới đi có vài
tháng mà khôn thế, chả trách các anh ấy đi học tận Hà Nội đã khôn lại
khéo. An nhớ bàn tay Thường hôm nào trên ngực mình. Ngực An hôm ấy cũng
cứng ngắc.
- Chị gọi mày ra đây để nói với mày, ngày,mai chị
về dưới xuôi ở với anh Ngoạn. Anh không đi đóng cối nữa đâu, anh đưa
chị về mở hàng bán bánh rán cầu Vòi. Đừng hỏi chị, Cầu Vòi ở tận Nam Định
cơ, nhớ nhé bao giờ xong xuôi chị gửi thư cho em. Tao nói nhỏ cho mày
biết thôi, tao về quê anh ấy mới biết anh ấy dậy học cấp hai đấy.
- Ơ sao mà lại đi đóng cối?
- Anh ấy đang viết về phong tục tập quán dân miền sông Thao cho cái
… công trình gì ấy nên mới đi đóng cối để vào trong dân mình cho dễ bề
tìm hiểu.
- Chị không sợ họ nói chị theo trai à? An ngước lên nhìn Năng trong bóng loang lổ rừng sơn dưới trăng
- Đời con gái nào chả phải theo giai em ạ.Lấy chồng tức là theo
giai đấy. Khi em lấy chồng là ngay tắp lự em mất tên mất quê. Mày chả
biết gì. Thôi mà chị nói cho mà nghe, nhằm thằng nào nó có tiền hay là có
khả năng làm ra tiền mà lấy em ạ. Mát mặt lúc nào hay lúc ấy, chứ ở quê
mình cả đời theo đít trâu, cả đời ngâm chân xuống ruộng lầy, ăn măng ăn
sắn rồi lại đẻ lũ con cũng lại đơm đo cua ốc. Ngừng một lát Năng nói khẽ
vào tai An;
- Mày là đứa phát dục sớm đấy, cẩn thận em
ạ.Nhưng đánh thằng nào phải cho kì đổ nhé. Rồi chị Năng kéo An nằm ngửa
ra, trời đầy những ngôi sao và ánh trăng lăn tăn trên lá rừng. Hơi thở
chị Năng nóng thế, phả vào tai An. An bảo với chị Năng, khiếp! Đúng là
một đàn bà bằng ba đống nhấm.
Chiều tối hôm sau, trong bữa cơm bà Hiếu bảo :
- Cô Năng nhà ông Vang mang đồ đoàn đi ra tàu rồi.
An
cắm cúi ăn không nói gì chỉ vâng với mẹ. Chị Năng đã hai mươi bốn tuổi
lại xinh đẹp, An biết chị ấy không chịu lúi sùi ở mãi cái làng bán sơn
địa này, ngước mắt lên thấy lá cọ, nhìn xuống thấy ruộng đầy săn sắt rô
ron và đỉa , ngước đằng đông vướng gò,ngó đằng tây vướng sông. An thích
con người chị Năng, cứ hừng hực yêu, cứ hừng hực sống mà lại rất khôn nữa
là đằng khác. Thế mà người trong làng chả hiểu gì về chị, cứ bảo có hồi
chị ấy đã là phó bí thư chi đoàn, chị ta phải sống gương mẫu. An đã từng
nghe chị Năng bảo,gưỡng mẫu à? Ai sống thay đời của mình? Chã nhẽ chi
đoàn hay chi bộ làm thay cái tên làm đàn bà, làm thay cái tên làm mẹ cho
tao hay sao? Chi đoàn có làm chồngtao không? Nghe mà sợ, An chỉ thấy chị
ấy đẹp, thấy thích chị ấy.
Cơm xong con gái đi họp chi đoàn, bà
Hiếu một mìnhphẩy cái quạt lá cọ ra chum, cởi áo ngồi thụp xuống dội ào
ào. Bà lấy cái cuống quạt kì kì sau lưng. Đã quá cả ngày, ngứa ngáy giờ
mới phanh trần ra mà kì cọ.Bà nhớ ngày xưa cũng những đận mùa hè gặt hái
lè phè rơm rạ mà ông lí Phi cứ chừng mười giờ đêm là ông lên nhà . Nửa
đêm ông lại về đằng bà cả. Bà nằm một mình,trăng chui cả vào giường lõm
bõm sáng, lõm bõm tối. Cái thời vừa mới hòa bình, bà mới thấy thêm khổ vì
thân làm lẽ. Nếp sống mới là cái của nỡm gì mà làm bà khổ,bà chịu đựng,
chuyện chồng vợ bà làm hại đến ai đâu mà bà phải khổ, bà thèm vào cái sự
xấu hổ ở cái buổi sồn sồn. Ai cũng được dịp phê phán ông chồng bà đa thê.
Đa thê thì hại đến xã, huyện à? Bà lẩn thẩn ngẫm ngợi bà chỉ thấy cái
chịu đựng của người đàn bà là khổ. Bây giờt hì bà lại nghĩ cho con An,
nay chi đoàn, mai xã đoàn, rồi có cái cọc nào mà neo lại đời con gái? Bà
chỉ mong nó yên hàn mà cũng đừng làm lẽ như bà mà thôi. Bà biết nó hồng
nhan, nó còn đẹp hơn bà nhiều.
4
Ở
cuộc họp chi đoàn hôm ấy có cả ông đội trưởng và phó bí thư xã đoàn đến
dự. Bí thư là anh Lại thọt chân. Anh Lại học hết lớp 7 thì nghỉ đi học
chăn nuôi dưới huyện năm rưỡi, rồi về làng. Anh cũng xung phong đi bộ đội
nhưng chả ai người ta cho đi. Họ bảo anh ấy làm ra vẻ đấy thôi chứ chân
tươi, chân héo có mà đi làm của nợ cho bộ đội. Ở chỗ khám tuyển ra anh,
thập thiễng chân, tay quyệt nước mắt. Anh buồn mất mất mấy ngày vì không
được cho đi bộ đội. Ấy vậy anh vui ngay, Anh đi thiến lợn, thiến trâu cứ
nhoay nhoáy. Trong xã ai cần thiến, anh đến ngay, chả phải mất tiền gì cả
cứ bao thuốc Tam Đảo là xong. Anh Lại hay cười, vuốt mớ tóc gọng kính rồi
rút điếu thuốc thơm phưng phức ngậm miệng. Anh không bao giờ châm thuốc
ngay, cứ vừa ngậm thuốc vừa nói đến sốt ruột. Y hệt ông trưởng phòng nông
nghiệp huyện mỗi lần về xã. Họ bảo ông trưởng phòng trên huyện là thần
tượng của anh Lại.Nghe đâu ông trưởng phòng trên huyện cũng xuất thân
thiến trâu thiến lợn .
Cuộc họp có hai vấn đề, một là phê phán chị
Năng đi theo giai. Hai là tập trung chặt cây chó đẻ làm phân xanh. Nghe
anh Lại nói chị Năng thế này thế kia, An thấy bứt rứt. An phát biểu, chị
Năng đi lấy chồng đấy chứ, trai chưa vợ gái chưa chồng, có giấy xin đăng
kí của địa phương anh Ngoạn hẳn hoi, mà anh Ngoạn đàng hoàng đến Ủy Ban Xã trình giấy tờ thưa bẩm rõ rệt đấy thôi. Chả nhẽ cứ phải lấy chồng ở
quê mới khỏi tiếng theo giai à? Mọi người cười ồ. Anh Lại gắt :
- Nhưng đang lúc nước sôi lửa bỏng, chi đoàn đang nhiều việc bỏ đi
lấy chồng là …là vô trách nhiệm. Mọi người cười ồ lên, to hơn. Có tiếng ai
đó trong góc tối, chi đoàn có giải quyết được cơn ngứa không đới! Kháng
chiến với Mỹ thì không được yêu không được đẻ nữa à…..à ha ha.
Ông
Túc đội trưởng biết tay bí thư chi đoàn hay ngó vào ngực An thấy khó
chịu. Trong tâm ông, ông muốn con bé này lấy thằng Ngũ con trai ông cơ.
Vậy nên đứa nào thích cái An là ông không ưa. Ông cắt ngang ý kiến,ông
nói về chuyện phải làm phân xanh, cải tạo ruộng đồng, ông tính đến
chuyện khoán mỗi đoàn viên năm tạ phân xanh, ông gợi ý cánh đồng phân
xanh chi đoàn. Rằng cánh đồng thanh niên chỉ dùng phân xanh do thanh niên
làm nên phải do chính suy nghĩ và đầu óc họ, họ nghĩ sao họ làm như thế,
không bắt ép. Ấy vậy ông lại nghĩ đến nghị quyết chi bộ có câu hướng dẫn
theo sát việc làm cho chi đoàn thanh niên. Thanh niên họ bướng lắm, chứ
đâu dễ bắt ép họ.
Họp chi đoàn xong ra về, An nghe anh Lại gọi chờ
anh cùng về nhưng An cứ cun cút chạy. Vừa vào nhà bà Hiếu đã tru lên, bà
kể lể đám dây khoai lang mới bằng cái chiếu đã bị đứa nào cắt trộm. An
soi đèn ra vườn thấy nhựa khoai vẫn chảy. Sau lụt nhà ai cũng lo trồng
khoai chống đói nên mới cơ sự này. An thấy buồn. Quê hương hiền lành thế
nhưng cũng bé vanh vanh chả khá lên được. Trong đêm An mơ một ngày nào đó
mình sẽ giàu có, sẽ đi ra khỏi làng. Đi khỏi cái xóm kin kít những tre
hóp và đồng sâu ngăn cách những người ở xóm của An với xóm khác. An đặt
cái đèn dầu xuống phản nói gọn chõn, người ta ăn cũng như nhà mình ăn. Bà
Hiếu tru lên, ăn lẫn nhau à, ăn thế mà đòi ăn sao, không giỏi ra mà ăn cắp
của hợp tác xã kia kìa. Híc híc, bầm ơi ăn cắp của nhà khác mớ dây khoai thì
chả tội gì chứ ăn cắp của hợp tác xã là tội lớn lắm đấy. Thôi quên đi bàm, con sẽ
làm luống nữa cho nhà ta. Đúng lúc ấy ở ngọn cây nhãn trên đỉnh gò cọ
lớn có tiếng loa
- Alô a lô. Thưa toàn thể đồng bào lắng
nghe tin chiến thắng từ đường số chín Nam Lào. Thế là tiếng a lô lại đưa
An nhớ đến anh Thường. An thấy nhấm nháy mồ hôi lăn trên ngực mình, thấy
mình như lên cơn sốt. An chạy vào nhà lấy cái áo ra giếng kéo gầu nước
lên tắm trần trong đêm.
Nước dội đến đâu người như dịu lại đến
đấy. Ở làng nhà nào đàn bà chả tắm truồng vào đêm. Mà kì thật, cứ khi chủ
nhà tắm là con chó ra ngồi bên bờ giếng canh chừng. Có hôm người nào đó
đi ngòai ngõ thấy bóng nhấp nhóa trắng bên thành giếng, đứng lại nhòm là
con chó sủa ngay. An cười, nghĩ bụng con vện nhà mình nó cũng biết là
mình đẹp hay sao ấy nhỉ? Rồi vỗ vỗ lên thânmình, cô thấy người mình mát
như cái chum nước lúc gần sáng.
(còn nữa)