Monday, September 28, 2015

Gửi thu về miền em


Cứ như thể tặng quà vay nợ
Miền em vàng lúa, heo may cả chòm mây qua làng
Anh ở thị thành thơ phú tình tang
Thu cũng mượn từ ngàn đời cổ tích
Thu của anh gửi em cũng là mùa cũ rích
Thị thành sương buông lam nham trên chung cư lổ loang
Dấu chân người quê mang thu vào đến ngõ
Rổ hoa cúc họa mi hanh hao phố nhỏ
Thu ở ngoài những cơn nhập nhoạng rượu lên men


Người quê có chút thơ nào mang ra phố hết
Để mùa xưa rớt chút vọng về
Thế đã là người nhớ lắm
Vĩ nhân nào mặc áo nhà quê.


Toàn những áo quê mang ra hong
Nhưng không hề mặc
Những cuộc về nguồn vẫn là người ở nguồn mà ta như xa hút
Lần đầu về lại mùa thu xưa
Tội nghiệp chưa những tâm hồn thơ
Quê đến thở vào tâm tưởng
Nhưng quyết tâm quên dĩ vãng
Nghĩ mùa thu chỉ ở chốn văn chương 


Anh gửi về em mùa thu
Anh vay mượn của quê mình mang ra phố
Sao ngại ngần đến thế
Sáng nay vàng lúa trên vai và thu ở áo em về 


Sáng 27/9/15
 

Wednesday, September 23, 2015

Tháng Chín

( Viết cho ngày sinh mình 22/9)

Tháng chín ơi đừng đổ cơn mưa
Trời đừng khóc mảnh khuyết không lạc nhau được nữa
Cũng chẳng vội vã nắng đâu vì mắt anh là đốm lửa
Thu ở cuối mùa tan biến vào em

Ngày tôi sinh mùa thu cứ trong xanh
Mẹ chở che tôi bằng manh áo vá
Nay đã già , mẹ luôn là nỗi nhớ
Níu sông Hồng vụn vỡ sóng ngày xưa

Tháng chín ơi xin đừng đổ thêm mưa
Hãy dừng lại để đong đầy hạnh phúc
Con đò cũ lâu lắm về với bến
Ai đò ngang em đò dọc một đời

Một năm chỉ có một ngày thôi
Dòng thu cứ miệt mài trôi tít tắp
Mặt đất cứ thăng trầm còn trời xanh thì vẫn hát
Khúc tình ca không chọn tháng chọn mùa

Ơi tháng chín gần tháng chín xa
Đời chìm nổi bao nhiêu là tháng chín
Ta ngược sông đi trong vòm thu cũ
Cánh đồng quê chim ngói vượt sang mùa

22/9/2015


Thành Phố có em tôi


Thành phố có em tôi
Nằm nghiêng bờ sông lam lũ
Thành phố có em tôi khói bếp vẫn chiều chiều
Em vẫn gọi vào từng giấc ngủ
Giấc mơ ngực trần gió cũng liêu xiêu


Thành phố duỗi chân bên bờ sông hoa gạo nở
Em gối nghiêng đầu về mùa lau cũ
Nghiêng cả cơn mơ vụng dại
Về anh đêm mềm ứ ngực mình

Em trao thân vào khuya anh tự tình
Hồn em trinh nguyên tiếng tàu xuôi qua phố
Thành phố chả khi nào được ngủ
Em trút xiêm y để gió núi thơm về

Thành phố em vẫn mang mùi khói bếp
Gửi về anh cả hương quế hương hồi
Mùa này măng đắng non nhú
Ngai ngái bầu ngực em tôi

24/9/2015

VÀNG


Mấy chục mùa vàng trôi qua mặt người
Sáng lấp lánh
Buồn thăm thẳm 
Mà cũng vui lanh lảnh
Sáng xưa vàng, đàn chim ngói về
Đánh rơi sự tinh nhanh vào nhân cảm

Này con chim ngói ơi
Mày sa vào bẫy
Cho dù mày là giống chim khôn
Có những con chim mồi
bập bung khốn khổ

Mùa vàng lướt qua nỗi khổ màu vàng
Suốt mấy mươi năm
Tao trở về đồng làng vật vờ lúa
Không thấy mày trở về
Đồng hôm nay không vàng nữa
Tao đi về xuôi

Thu 2015

Sunday, September 20, 2015

CHUYỆN VẶT NHỚ LẠI Ở KHU TẬP THỂ


(Lời người viết :Lẩn thẩn nhớ mới nhớ cũ. Lại nhớ có cái truyện này viết cách nay đã hơn mười năm. Đọc lại thấy nhớ cái khu tập thể nhà mình ngày xưa nhảy dù vào đấy quá. Treo lại lên để tự mình yêu lấy mình. Vì vậy bạn nào có thời gian thì đọc. Đừng có vì ưu ái mà like nhưng không đọc. Và, cũng xin lỗi bạn phây nào cảm thấy mất thì giờ khi phải đọc nó nhé.)

Vài tháng nay làm ăn thua lỗ. Càng lỗ mình lại như người tỉnh táo, nhớ những chuyện linh tinh hồi nảo hồi nào. Lúc trước rủng rỉnh lãi. Nay nhậu mai du lịch , thăm thú giao du chẳng nhớ gì những sự việc lúc hàn vi, chẳng nhớ cả những người từng là ân nhân mình ngày trước . Đêm, vợ con ngủ cả. Một mình đứng ban công hút thuốc. Khói thuốc bay vào phòng vợ con đang ngủ ho sù sụ. Chợt nhớ phải khép cửa lại. Bấy lâu nay mình cũng đã gây hệ lụy tới gia đình nhiều mà dửng dưng coi là đương nhiên phải thế, Ông chủ mà. Một thời, khi không có tiền sống tá túc ở cơ quan của vợ trong khu tập thể Cục bản đồ gần chùa Láng mà ngày nào cũng vui như hội làng. Nhà ai cũng như nhà ai. Cả khu ngót trăm ngôi nhà mà chỉ có 2 cái mô- kích. Một của thiếu tá Trung làm hậu cần quân khu thủ đô và một của cậu Ngũ đi Đức về. Nhà mình có cái xe đạp Diamante là oách lắm rồi. Nhìn vợ mình dong cái xe đi vào ngõ trông thị xinh hẳn lên. Khốn nỗi , hồi đó mình đã làm quản đốc rồi nhưng nhà thì không có, nhẩy dù vào tập thể bên vợ. Trong tập thể này hễ anh nào nhẩy dù vào thì coi như đó là công dân hạng hai. Mà đã là công dân hạng hai thì đi lại phải nhẹ nhàng , ăn nói phải nhã nhặn . Gặp ai cũng toét miệng cười và chào hỏi tử tế . Hồi đó cái oai của mình có hệ số bằng không . Không ai giao thiệp với mình , có chuyện gì thì chỉ nói với vợ mình thôi. Mấy anh cán bộ cấp phó phòng là loại cao nhất ở đây. Chứ vươn tới trưởng phòng thì họ lại tiến lên khu tập thể oách hơn , sang bên cục hay ra khu mả Tàu ngoài Láng Hạ. Vậy nên nếu không tính mấy tay cấp phó phòng thì khu nhà mình là khu thường dân . Phải nói đúng là khu lao động .
Cạnh nhà tôi là nhà Vang Nghi. Vang là vợ . Nghi cũng nhẩy dù như tôi nhưng là thế hệ trước . Nghi làm bảo vệ bên cục ở đường Láng thượng đi bộ năm trăm mét là tới. Vợ Nghi , cái cô Vang da trắng và to con . Kém mình 5 tuổi mà cũng đã hai con gái. Cùng mái chung tường cót ép với nhau . Chuyện nhỏ chuyện to cố giấu nhưng hai nhà đều biết hết . Ngay ngày đầu tiên nhẩy dù vào hắn bảo , chiều nay đợi em về hai anh em uống rượu . Chiều ấy giám đốc xí nghiệp vợ tôi cho bảo vệ xuống hót vợ chồng tôi ra ngoài. Chẳng hiểu sao Nghi biết chạy về trước thông báo với vợ chồng tôi và hắn dặn, anh đừng có ý kiến gì cả, cứ vâng dạ cho xong , không có gì xẩy ra đâu. Mà không có gì xẩy ra thật . Hai chú bảo vệ sừng sộ một hồi rồi ra về. Đêm ấy tôi và Nghi uống hết hai ngàn rượu và năm trăm lạc rang ngoài bãi rau làng láng.
Rồi những ngày sau đó tôi và Nghi lăn ra làm ruộng trồng rau. Đất làng Láng bỏ hoang vô khối chứ không tiền tỷ như bây giờ. Hai thằng trở thành tiên phong cho cả khu tập thể về công tác khai hoang . Rồi, tôi và Nghi lại đi đầu việc lấy phân bắc tưới rau. Chiều chiều, phân bắc được mang ra tưới rau thối inh vào khu tập thể . Họ chửi bọn tôi khiếp lắm. Nhưng thây kệ. Nghi và tôi vẫn vừa làm vừa hát. Thế rồi chỉ vài tuần hai ruộng rau của nhà chúng tôi xanh um. Hồi đó hái rau bán hàng tháng cũng bằng lương kĩ sư. Và thế là cả khu lao vào hót phân bắc. Mọi hố xí sạch bong. Hết phân rồi, kéo nhau sang sang trường đại học Ngoại thương chiến đấu tiếp. Cánh đồng rau muống trông mà sướng . Nhưng rồi rau nhiều quá lại đâm ra cạnh tranh chỗ bán. Dần dần rau xuống giá, chợ Giảng võ ư ứ rau. Buồn chả ai thèm đi hót cứt nữa. Hố xí trong khu tập thể lại đầy phè, thối inh. Tôi và Nghi bần thần ngồi bàn kế khác.
Nhà chúng tôi là nhà lợp cỏ tranh từ những năm 72. Đó là những gian nhà làm theo kiểu sơ tán máy bay. Sau hơn mười năm cỏ tranh mục nát , nhưng cột kèo tre thì còn tốt. Gian nhà dột thì đắp bằng cót ép . Nhà nào có tiền thì cậy cục nhờ mua vài mét giấy dầu đắp lên Cái mái nhà cứ dầy lên và nặng chịch chừng như ụp xuống bất cứ lúc nào. Nhưng cư dân ở dưới thì quyết không cho nó ụp xuống. Kẻ ở dưới chống lên. Trên cao cứ đè ụp xuống. Cuộc chiến giữa mái nhà và con người kéo dài năm này qua năm khác. Việc mua giấy dầu không phải là đơn giản. Phải có tiêu chuẩn, phải có giấy chứng nhận của cơ quan… nhiêu khê lắm. Một tối, Nghi kéo tôi ra ngoài bãi rau làng láng . Nghi có người quen ngoài Giảng võ xắp dỡ nhà để xây mới. Ông này là sếp nên căn nhà lợp ngói lại còn được ốp giấy dầu năm ngoái nên còn tốt lắm. Chỉ cần dỡ nhà hộ là ông ấy cho toàn bộ số giấy dầu trên. Hay. Vậy là trọn hai ngày dỡ nhà. Xong xuôi, hai đứa nhễ nhại thồ vài chuyến mới hết sản phẩm về khu tập thể. Công đoạn tiếp theo Nghi lo. Trúng quả. Chỉ trong một buổi chiều hết bay số giấy dầu. Thừa thắng xông lên, Nghi đưa ra sáng kiến bán chứng vịt lộn. Tôi chịu. Hắn không chịu. Hắn về Phú Xuyên mua thí điểm bốn trăm quả để bỏ mối. Mặt hàng này không có mối sẵn thì chỉ có luộc ăn trừ cơm. Và sau vài ngày Nghi cho cả xóm mỗi nhà vài mươi quả. Ăn nhiều quá mấy tháng sau nghĩ tới trứng vịt lộn ai cũng kinh.
Dạo ấy tôi làm quản đốc Xí nghiệp Dụng cụ Thể thao ở sân Hàng Đẫy. Chả ăn được gì chỉ có mùn cưa mua tiêu chuẩn. Tuần được một bao. Xin thêm anh em lúc được lúc không. Ì ạch đèo bằng xe đạp về bán cho hàng xóm, gần bằng lương tháng . Nhưng, Nghi phát hiện ra rằng mùn cưa không ăn bằng gỗ vụn . Thế là nghe theo hắn mỗi khi mua mùn cưa tôi nhặt trộm những thanh gỗ vụn, ngắn có dài có cắm theo phương thẳng đứng của bao mùn cưa. Rồi , hắn lọc ra đem bán cho hàng thợ mộc ngoài Giảng võ. Họ làm nan sa lông. Hay , hiệu quả hơn bán mùn cưa tới năm lần.
Nhà Nghi vang có mỗi cái giường đôi. Cái giường một thì mượn của cơ quan .Mỗi lần sang nhà tôi hắn mê mải ngắm cái tủ li hai cánh lát chun, miệng lẩm bẩm tuyệt tuyệt. Tuyệt cái khỉ gió , khung xương cũng là đồ ăn cắp dần ở cơ quan. Hai cánh lát chun nứt rồi nhưng gắn keo sơn bả rất khéo. Hồi ấy tủ li đắt thế, cỡ ba chỉ vàng. Nhà nào mà có cả tủ li và tủ đứng là được xếp hạng để …nể. 
Thường đi làm về vợ tôi hay ca cẩm những chuyện đâu đâu phát sinh ở cơ quan . Nghĩ lại cũng thấy tội cho vợ lấy phải chồng nghèo. Chuyện thế này. Do làm cái nghề ngồi vẽ bản đồ , học nghề cùng nhau, về cơ quan cùng nhau lại làm việc tám giờ bên nhau năm này qua năm khác mà lại toàn đàn bà . Vì thế chuyện gì cỏn con cũng thành quan trọng trong cái căn phòng sực nức mùi đàn bà và tanh tanh của mực tầu. Tỷ như chuyện cô A lấy được anh thợ ảnh dễ kiếm tiền, ăn trắng mặc trơn , tuần nào cũng bánh tôm hồ tây. Chị B chồng lái xe quá cảnh , mỗi chuyến về nào là tông lào, nào là mì chính ăn không hết mà cho thì ngại mang tiếng, cứ để giành chuột cắn tung tóe. Khiếp , mì chính quí như thế mà để chuột cắn. Mèng như cô C cũng còn vớ được anh công nhân bên xưởng in, nhưng lại có nhà trên hàng Gai. Tiếng là công nhân nhưng đi bình bịch, đeo đồng hồ Orian to vật, tóc vuốt ngược ướt dượt. Trai phố cổ nhà tối hun hút người nào cũng trắng trẻo ngai ngái mùi thành phố. Một thời ai cũng thích cái thứ mùi người trên phố. Tóm lại, rất nhiều hoàn cảnh nhưng hoàn cảnh nào cũng trên mình một bậc.

Mấy cô bạn vợ mình toàn lấy mấy chú đi tây về. Chú nào cũng có xe cuốc đít cong như đít bọ ngựa. Hoặc giả không phải chú đi tây thì cũng đi Trung quốc Triều tiên, áo len cổ quả tim, con gái bản đồ trông các chú đã thấy tây tấy. Đằng này vợ mình lấy thằng nhà quê, cái xe đạp rách cũng không có. Không nhà cửa. Môi sốt rét thâm như con đỉa phơi ba nắng. Được mỗi cái là đảng viên, bộ đội từ chiến trường về. Hừ, bộ đội mà làm gì , chả nhẽ mắc võng ngoài đường mà ru con à ? Ai cần biết cái anh đảng viên không nhà phải nhẩy dù ? Trong bữa ăn vợ tôi bảo : ở tổ họ xếp em thứ bét . 
Xếp hạng thế nào ? tôi hỏi .
Vợ bảo, họ chấm điểm.
Ai có chồng người Hà nội một điểm . Chồng đi tây : một điểm. Ai có nhà một điểm. Ai có xe đạp ngoại cũng một điểm. Có tủ li một điểm, tủ đứng ba buồng hai điểm. …
Sau một hồi hồi tính toán nhà tôi được nhõn một điểm tủ li .Vợ tôi mêu mếu. Tôi cố nuốt miếng cơm với cùi dừa kho đang mắc ngang cổ. Hai thằng con trai thích thú hỏi : Thế nhà Thu Giai mấy điểm. Mẹ nó gắt, hơn điểm nhà mày. Bố con tôi ngồi …lặng ngắt .
Vậy thì phải làm cái tủ đứng cho nhiều điểm . Bán cái tủ li đi cho Nghi Vang. Nhà ấy đang máu . Hôm sau gọi Nghi. Hắn mừng húm. Cho hắn nợ trả dần . Ngay buổi chiều vợ chồng sang khiêng luôn về . Cái tủ cánh lát chun bây giờ lại dựa quay lưng về nhà tôi . Ngăn giữa có bộ bát sứ trung quốc mới mua. Hai bức ảnh cụ già mới làm đề phòng hậu sự , một con lật đật Liên xô đo đỏ . Cái này nghe đâu của nhà Hồng Hoành cho vì nhà ấy có chú em mới đi Liên xô một năm . 
Nghi oách thật. Tối ấy vợ Nghi vừa nấu cám lợn vừa hát nổi trống lên rừng núi ơi . Nghi hút thuốc lào xoe xóe ngoài sân, hắn đang giải thích cho hàng xóm thế nào là lát chun thế nào là lát hoa. Trong nhà vợ tôi bần thần nhìn cái khoảng đất toe toét lỗ giun đùn, nơi vẫn kê cái tủ li gỗ lát. Cái tủ ấy nghe đâu vẫn tồn tại đến bây giờ. Nó chứng kiến sự lớn lên của hai đứa con gái nhà Nghi, chứng kiến sự mỗi ngày giỏi giang xinh đẹp của hai con bé trong suốt thời gian khó khăn hợp tan của bố mẹ nó.

Hai thằng con trai nhà mình, thằng lớn 8 tuổi thàng bé 1 tuổi nổi tiếng trong khu vì …đen. Một lần, đi làm về tới sân bóng chuyền, ông con lớn ngồi vắt vẻo trên bể nước, có tới ba chục đứa bé ngồi nghe nó giảng bài dưới sân. Mình phục sau cái xe ô tô tải nghe trộm. Nó hỏi , đố các em trong khu nhà mình người lớn ai đen nhất ? Cả lũ trẻ đồng thanh : bố anh ! Nó bảo tốt. Vậy trẻ con thì ai đen nhất ? Lũ tre reo to hơn : anh ! Nó khoái trá, các em giỏi lắm, anh sẽ xin bỏng ngô nhà bác Thấm cho chúng mày. Nghe mà lộn ruột nhưng làm gì được nó. 
Nhà chị Thấm có một mình. Chị đi thanh niên xung phong thời chống Mỹ nên tuổi xuân gửi ngoài tuyến lửa. Tài sản mang về là nước da sốt rét và mớ tuổi ngót ba mươi. Tội nghiệp. Chả có chồng Chị xin đứa con nuôi. Chị làm lụng vất vả hơn người thường mà vẫn rớt mồng tơi. Chị xoay sang bán bỏng ngô. Thằng con lớn nhà tôi làm chân tiếp thị cho bác Thấm. Nó tập hợp vài chục đứa trẻ xếp hàng dọc. Nó đi đầu cầm cái ống bơ sữa bò gõ coong coong. Nó xướng to : Nhà bác Thấm, thì lũ trẻ hô tiếp to hơn : có bỏng ngô. Coong coong coong . Một lũ rồng rắn đi quanh khu tập thể rồi ra đường sang cả trường đại học Ngoại Thương. Cứ réo ầm lên nhà bác Thấm có bỏng ngô. Tiếng coong coong và tiếng cười của lũ trẻ réo rắt. Khổ nỗi nó nghịch thế mà lại đen đủi, nên là cái mốc để mọi người đề cập tới. Nhà Cúc Tấn có hai con gái, cũng xinh vừa thôi . Nhưng Cúc Tấn thì luôn cho rằng con nhà mình cành vàng lá ngọc. Mẹ thì làm thủ quĩ, mỏng môi hay hạt. Bố làm đến thiếu tá. Mỗi lần hai đứa con lười học thì mẹ nó lại chì chiết : Mày mà hư sau này tao cho mày lấy thằng Bưởi. Thằng con nhà tôi quần đùi trễ rốn đứng ngoài 
đường vạch quần đái về phía nhà Cúc Tấn, vừa đái vừa vẩy. Hai vợ chồng tôi nghe mà buồn cười mà tê tái trong lòng. Tê tái mãi. Chả biết hai cô thúy Kiều thúy Vân nhà ấy bây giờ ra sao, còn thằng con lớn nhà tôi bây giờ là đại úy cảnh sát , mỗi lần nhắc tới thời sống ở khu chùa láng thấy nó chùng mặt xuống , lẩm bẩm …chúng nó đi đâu hết chẳng gặp đứa nào …

Vài năm sau khu tập thể phá hết nhà giấy dầu, nhà cỏ tranh xây thành nhà cấp bốn. Xóm nhà tôi như thể khu gia binh thời VNCH ở miền nam . Nhưng mặt mũi ai cũng sáng sủa hơn. Bây giờ hầu hết nhà nhà đã có ti vi. Nhà mình cũng vậy , tuy là ti vi đen trắng , không phải hàng tối hai thằng con thập thò ở cửa nhà Nhung Biểu. Nhà cô Nhung có bà cụ phúc hậu và thương trẻ con nên chúng nó hay kéo sang xem ti vi hoặc nghe bà kể chuyện. Bà cụ đến là đẹp người tốt nết. Nhà Nhung thì tướng tá rõ thật to con nhưng khi xem phim hễ gặp cảnh nào mùi mẫn y như là khóc, khóc đỏ cả mũi. Hôm nào có đoạn phim “ Hoàn cảnh “ là rầm rầm tiếng mở cửa , chúng nó gọi nhau chạy đi xem cô Nhung khóc . Cô Nhung bây giờ chắc cũng nghỉ hưu rồi, còn lũ trẻ thì thành kĩ sư , bác sĩ , đi hết cả.
Thời thế đổi thay chóng mặt. Khu tập thể nhà tôi ngày ấy cũng vươn dậy, tự cơi nới mà chòi lên. Đường xá nay hẹp lại và không còn phải che mưa vì các mái nhà vươn ra gần chạm vào nhau. Lũ trẻ con như thằng lớn nhà tôi đếu đã học lớp 7 lớp 8 cả . Chúng đi lại duỳnh duỵch ấy ấy tớ tớ om xòm cả xóm.
Có điều lạ, lứa tuổi chúng nó đều không chơi với con bé nhà Hiền Mùi. Mùi là tên mẹ nó. Hai mẹ con ở với nhau, bố nó ở quê mất trong một vụ cháy nhà. Chả cứ gì trẻ con, người lớn cũng ít thân thiện với cô Mùi. Mùi da ngăm, có lẽ vì hoàn cảnh khổ sở nên cô ta ăn mặc khí luộm thuộm, tất tả . Mùi làm mọi việc, lăn lộn đủ thứ để nuôi con. Đứa con gái cũng lôi thôi như mẹ và luôn là tâm điểm chòng ghẹo của bạn bè. Trong mắt tôi, mẹ con nhà Hiền Mùi chả có gì khác biệt. Thậm chí tôi còn thấy nhà ấy giỏi giang hơn khối nhà có mác Hà nội. Có chăng họ quan tâm tới cái đằng nhan sắc. Nhưng cả hai mẹ con nhà ấy có cái gì khó nói lắm. Hoang dã. Thông minh . Tôi đồ rằng con bé Hiền sau này đẹp chứ chẳng chơi. Mùi làm gì cũng giỏi, kể cả việc vẽ bản đồ. Mở cửa hàng ngay tại nhà , hàng sén nhà nó thật đông khách . Đứa con lăn vào giúp mẹ mọi việc mà nó học vẫn khá . Chê gì thì chê, hàng nhà nó rẻ và tốt ai dại gì mà chê .
Trời chả cho ai tất mà cũng chẳng lấy đi của ai tất cả. Nghe đâu Mùi có cuộc sống khá giả và con bé Hiền lớn lên xinh đẹp hơn ối cô gái trong khu và lại lấy chồng cũng tươm nhà cửa khang trang nhưng cái tên nhà Hiền Mùi thì vẫn nguyên. Người ta có thể quên mấy ông phó phòng trưởng phòng chứ còn nhà Hiền Mùi thì mãi mãi họ nhớ cùng với sự tồn tại và lớn lên của cái khu thập thể chùa Láng .
Đã mười mấy năm chuyển khỏi nơi vợ chông tôi nhẩy dù xuống đó vào một sáng tháng ba. Cũng hai mươi năm không gặp lại Nghi Vang. Nhưng khu tập thể Bản Đồ Chùa Láng thì vẫn tồn tại và đổi thay nhiều lắm. Những đứa trẻ ngày xưa đã thành bố cả rồi. Nhà cửa xây lô nhô xanh đỏ. Cư dân ở đó đông gấp mười lần ngày xưa . Nhưng nhà nào cũng khép kín,đông đúc nhưng không còn phải lo đi ngoài ở nhà vệ sinh công cộng nữa. Cái thủa gặp nhau tránh mặt không được ở ngoài hố xí với bộ mặt căng thẳng không ai nhường ai xa tít tắp từ lâu rồi. Lớp trẻ không hình dung nổi và cũng chẳng ai muốn nhớ lại làm gì. Chỉ có tôi lẩn thẩn nhớ lại những chuyện không đâu, chuyện một thời đã lùi xa , đã xưa như cánh đồng húng Láng nay chỉ còn trong ca dao, trong chuyện kể . Con đường đất sỏi bụi mù chạy vào khu nhà chúng tôi xưa đã mang tên đường Chùa Láng . Con đường lúc nào cũng đông người, mật độ gái đẹp ở đây rất cao vì tập trung tới bốn trường đại học. Nơi rất ấy một thời gia đình tôi đã sống với hàng xóm thật vui vẻ và ân nghĩa . Bây giờ muốn tìm lại một nơi như thế, muốn sống tình nghĩa như hồi đó cũng dễ gì tìm được . 
Không tin bạn thử đi qua đó mà xem

Saturday, September 19, 2015

HẸN VỚI ĐỒNG VĂN.


Trở lại thôi với đá với hoa
Cao Nguyên nhớ nhau nhấp nhô như rừng già
Đêm sóng sánh sương mềm và em ấm lửa
Rượu nồng vào nhau cười mắt cười môi


Trở lại thôi, một năm rồi mù rơi
Leng keng chân ngựa líu ríu em tôi
Nho Quế thở đêm, núi lên hơi mèn mén
Tiếng khèn Mèo óng ướt cả bờ môi 


Đá nhấp nhính lát lối về chợ Đồng Văn
Hàng Sa mộc chìm từ cổ tích
Có một chùm hoa rất là mùa đông
Mà hồng như má gái Mèo mùa xuân


Trở lại thôi Cao Nguyên còn nợ ta rượu Tam Giác Mạch
Ta nợ em nụ hôn ngập ngừng trong sương
Về nhé ngủ lại đêm phố cổ
Mai lên cột cờ ngắm hoa đào Lũng Cú nở sớm cùng em


19/9/2015
 

Thursday, September 17, 2015

Bài thơ không đề



Có một chiều mùa đông như thế
Sương bay đã nhoà trong mắt tôi
Em đi về lối ấy
Còn tôi đi về lối này
Đèn bên hồ chấp chới
Ta đi trong dáng say

Ta để đầu trần cho ướt sương
Hồn ta gõ cửa
Chẳng để cho em phải gõ cửa cuộc đời

Bài thơ tôi không đề
Em cứ việc viết vào trong đó
Của em- của tôi
Có một chiều mùa đông mưa rơi
Ta không thấy lạnh
Em đi rồi
Ta bừng tỉnh- cô đơn

Tháng 4. 1994



Monday, September 14, 2015

GIẾNG TANG

 ( viết lại)
Làng Khước rầm rĩ huyên náo từ sáng sớm vì chuyện chị Nhượng xã đoàn treo cổ tự tử.

Người ta hạ chị xuống từ cây mít còng trên bờ giếng. Khổ thân, đẹp nết, đẹp người như chị Nhượng sao mà can cớ gì phải chết. Lúc mới cắt dây thừng, bế chị xuống, mặt chị to như cái thớt xám xoẹt. Thế mà chỉ một lát sau, khuôn mặt đẹp trở lại, môi lại hồng, khóe môi có giọt máu rỉ ra và trông chị như đang ngủ. Người ta bảo có máu ở khóe miệng là vẻ như người có oan khuất gì lắm đây. Họ chen nhau vòng trong, vòng ngoài ngó chị, người chép miệng người lau nước mắt cố dấu nỗi bi ai. Đám thanh nữ thì ngó vội rồi lảng ra ngoài thì thầm, bảo cái gân xanh ở cổ nó to như cái đũa. 
Bà Vẽ hớt hải chạy về nhà gọi toáng lên :
- Ông ơi, ông ở đâu đấy. Về nhà ngay, con cái Nhượng nó tự tử rồi!
Ông Vẽ vội buông con dao chạy vội từ bãi giong riềng lên. Ông không nói câu nào đi phăm phăm sang nhà chị Nhượng . Đám đông rẽ ra nhường lối cho ông đi vào. Chị Nhượng nằm đó như đang ngủ, mặt phảng phất buồn và thoáng đau đớn. Bà mẹ của chị Nhượng tru lên ới con ơi, ới các ông các bà ơi tội tình gì thế này Nhượng ơi. Ông Vẽ bặm môi chầm chậm quay lưng trở ra. Có tiếng còi tàu tutu về qua làng, lúc chạy qua khúc quanh có cái giếng và cây mít còng, nó khàn khàn rú lên Tu…Tu.

***
Từ đời nảo đời nào đến giờ, làng Khước đã có cái giếng này, nó nằm chỉ cách đường tàu hỏa vài chục mét ,xung quanh đầy những bụi ngải cứu dại cao quá đầu gối. Vào mùa thu, mùi ngải cứu và mùi bùn ruộng đặc quánh như rắc phấn. Chị Nhượng và anh Thủ con ông Vẽ hay ra ngồi ở đó. Cái thành giếng cao quá đầu gối, xây bằng một thứ gạch vồ đá ong to tướng, còn nền giếng thì lát những phiến đá sám như gan gà nhẵn bóng. Người ta bảo làng Khước mà hết nước giếng này coi như xong. Hết phúc. Chưa bao giờ cái giếng này cạn nước , các cụ bảo thế. 

Ngày ấy mới hòa bình, làng xóm yên vui thong thả lắm. Bỏ tổ đổi công làng Khước vào hợp tác xã. Nhà nhà ai cũng vui. Vui nhất là đám thanh niên. Họ hát, họ múa, họ tập văn nghệ để hát múa vào những ngày như 2/9, ngày rằm trung thu và ngày thiếu nhi 1/6. Làng Khước đổi tên thành xã Bình Minh. Đổi tên đẹp vậy nhưng đi chợ, đi làm đồng, người ta vẫn gọi cái tên cổ mó lai hi là Khước. Mỗi kì văn nghệ, chị Nhượng xinh lắm. Chị hát “ Dân Liên xô vui hát trên đồng hoang”. Rồi chị múa Hái chè bắt bướm . Có lần chị múa điệu Tân Cương lắc lắc cái cổ mà ai cũng mê. Chị Nhượng nổi tiếng cả môn nấu cơm đoàn kết. Hồi ấy những ngày hội làng là cả làng ăn cơm đoàn kết. Chị Nhượng làm bếp tóc mai ướt mồ hôi bết lên thái dương, má cứ đỏ hồng con người chị, cứ như cái bếp than nồng nã. Chị Nhượng vào Xã đoàn cũng từ dạo ấy. Ở Xã đoàn là phải đi đầu mọi việc. Đoàn viên phải là những người trước tiên phá đình, phá chùa miếu mạo. Những ổ mê tín dị đoan, những cặn bã của tàn dư phong kiến. Rồi thì làm phân xanh , sạch làng tốt ruộng, nếp sống mới, đâu đâu cũng thấy thanh niên đi đầu. 
Khúc quanh của đường tàu hỏa, ngay chỗ cây mít còng, người ta dựng một cây đèn tín hiệu cho tàu hỏa. Cứ chiều chiều, khoảng 5 giờ là một người nhà ga trèo lên cái thang sắt đặt vào chỗ ô kính đỏ một cái đèn bão. Mỗi khi tàu đến đây lại rúc còi. Tiếng còi tàu và cái giếng cây mít còng luôn gắn với nhau cả đêm lẫn ngày.

Người ta bảo chị Nhượng phải lòng anh Thủ, con trai ông Vẽ. Mà cũng đúng thôi họ chơi với nhau từ bé mà. Anh Thủ học hết cấp 2 thì ở nhà làm ruộng. Anh làm bí thư chi đoàn ở thôn, anh là con dao pha của đội sản xuất. Cái gì nặng nhọc cũng đến tay anh. Anh Thủ hát không hay như chị Nhượng nhưng họ bảo những đêm trăng hai anh chị ngồi ở bờ giếng hát lới lơ. Các bà bủ ngồi quạt phành phạch, cái quạt lá cọ ở hè, nghe họ hát mà thở dài ra chiều cũng nhớ về hồi xửa hồi xưa. Nhưng cái chuỗi ngày hòa bình tiến lên Hợp tác xã ấm no ấy chả được bao lâu. Mấy hôm nay, người ta ồn lên về tàu bay Mỹ ném bom Thanh Hóa. Người ta bảo nó ném bom làng mình đến nơi rồi. Những ngày này làng Khước sốt lên như tàu lá hơ lửa. Người làng Khước lo mỹ ném bom vào hai cây cầu vào ga tàu hỏa . Cũng có người bạo gan hơn thì bảo , ồi nó thèm gì ném bom vào cái cầu bé như nhảng chân với ga xép nhà mình. Kệ mẹ nó, đến Điện Biên Phủ kia ta còn chả sợ nữa là. 

Những ngày này anh Thủ được bầu làm đội trưởng sán xuất . Vừa lo hướng dẫn những gia đình gần ga, gần cầu sơ tán, lại lo bố trí cày bừa vào ban đêm. Máy bay Mỹ đã vè vè qua làng mấy lượt nghe điếc óc vì tiếng gầm rú của nó. Chị Nhượng lại càng búi xúc xích trên xã, chị chạy đi chạy về như con thoi, nào là tổ chức họp dân quân, tổ chức huấn luyện trực chiến bắn máy bay. Làng Khước có một trung đội trực chiến. Gọi là trung đội thôi chứ chỉ có một khẩu trung liên cào cào và 4 khẩu K44. Họ đào ụ súng trên gò Muỗm, họ ăn ở luôn trên đấy bằng cơm gạo của Hợp tác xã. Trung đội này do Chủ tịch xã, một bộ đội phục viên năm 58 chỉ huy. Ông Chủ tịch chỉ đáo qua đáo lại, huấn thị rồi lại đeo túi đi ngay, ông còn lo nhiều việc làng. Chỉ có chị Nhượng là chỉ huy thật. Chị chạy đi, chạy về, họp hành với xã gặp gỡ nhận chỉ thị từ Đảng ủy, từ Chủ tịch xã. Chị gầy tọp đi nhưng má chị cứ đỏ hồng hồng. Dân làng Khước làm dưới đồng nhìn lên gò Muỗm thấy hãnh diện vì con em mình quá, ai cũng chỉ mong rồi có ngày tiếng súng làng mình nổ đoành đoành vào tàu bay Mỹ. Mà cũng thích thật , những đêm vắng, mấy chị thanh nữ trên ụ súng hát véo von. Hát như gọi nhau như không hề là chiến tranh đang đến với làng. 
Anh Thủ buồn. Đêm nay anh ngồi một mình trên bờ giếng. Đã hai tháng rồi, anh và chị Nhượng không gặp nhau. Ai lo việc người ấy. Có con tàu trên ngược về không bật đèn, nó lầm lũi chui vào đêm, lúc qua chỗ cây mít còng, nó lại tu lên hừng hực. Thủ rứt cọng ngải cứu vò nát trên tay, mùi hăng hắc bay ra hệt như mùi tóc chị Nhượng những hôm làm đồng, chị Nhượng hay ngắt mớ ngải cứu buộc trên trán cho đỡ đau đầu. Mùi tóc chị Nhượng như thứ bột thơm bay vào gió.

Anh Thủ đi bộ đội. Anh để lại bố mẹ và cô em gái. Cả nước ra quân, cả nước đánh giặc, chuyện tòng quân là chuyện bình thường . Mỗi năm 3 đợt trai làng ra đi. Người già ở nhà gồng sức mà lo sản xuất, mà lo nuôi lợn gà, bán nghĩa vụ cho nhà nước lấy thực phẩm đưa vào Nam cho bộ đội đánh giặc. Thế thôi nhưng cuộc tòng quân nào cũng là cuộc tiễn đưa nước mắt. Chả biết chị Nhượng có khóc hay không nhưng anh Thủ đi rồi thì có một ngày chị Nhượng sang nhà ông Vẽ giữa trưa.

Ở nhà ông Vẽ ra, chị Nhượng đi như chạy. Ông Vẽ cầm dao lững thững ra vườn chặt tre làm hầm tăng xê. Tiếng còi tàu qua làng bô bô. Ông ngó ra nhìn con tàu đầy những bộ đội rồi bỗng chém manh con dao vào gốc mít. Nhựa mít rỏ ra như sữa rơi tong tong trên những lá khô rồi keo lại. Ông nhớ anh Thủ. Ông đi vào nhà lấy dao bập trên thân cột gỗ sau bàn thờ khắc ngày anh Thủ tòng quân
***
Thủ đi bộ đội được hai tháng thì chị Nhượng treo cổ tự tử. Chị Nhượng chết chừng hai tháng thì anh Thủ lên đường đi vào Nam chiến đấu. Lúc ấy chiến trường cần quân gấp lắm, khiến các anh không được về phép. Có bộ quần áo và cái ni lông che mưa, anh gửi về cho cô em gái, tịnh không một lá thư nào của anh gửi về từ ngày chị Nhượng chết. Anh đi rồi không bao giờ trở về.

Vài chục năm sau người em gái anh Thủ dỡ nhà cũ để xây nhà gạch mới thì phát hiện ra cái cột gỗ ghi ngày anh Thủ ra đi. Kề bên trên lại là ngày chị Nhượng chết
***
Có một ngày làng Khước bây giờ gọi là làng Anh Dũng ồn lên. Nhà ông Vẽ có khách lạ từ xa về. Người đàn bà chừng sáu mươi tuổi dẫn một người đàn ông chừng 40 tuổi hỏi thăm về nhà ông Vẽ gần cây mít còng. Ông bà Vẽ đã về với tổ tiên, chỉ có cô em gái anh Thủ bây giờ ở nơi nhà cũ thờ phụng tổ tiên. Chiều ấy, hai người khách ra nghĩa địa làng thắp hương cho ông bà Vẽ. Những người làm ruộng dưới đồng lúa gần đấy kể lại. Họ nhìn thấy hai người khách thắp hương mồ ông Vẽ bà Vẽ xong hỏi mộ chị Nhượng ở đâu? khổ thân chị Nhượng ngôi mộ chị cỏ hoang mọc dầy quá. Người đàn bà vặt cỏ rồi đứng rất lâu với nén hương trên tay trước ngôi mộ khốn khổ. 

Trên đường về, người khách vừa đi vừa nói với người em gái anh Thủ :
“ Tôi yêu anh Thủ ngay từ ngày đầu anh về đóng quân ở nhà tôi nhưng không dám nói. Ngày cuối cùng để đi vào Nam, tối hôm ấy anh mới kể chuyện chị Nhượng với tôi ở bãi vườn sau nhà. Tôi thương anh ấy quá . Đêm ấy anh đã ôm tôi và cũng chỉ một lần ấy thôi, anh để lại đứa con trai này mà không trở về. Tôi đã qua bao nhiêu đau khổ rồi tôi coi đêm hôm ấy là ngày cưới của tôi và anh Thủ. Tôi đã có chồng hơn bốn mươi năm rồi. Kể từ ngày cưới chồng bốn mươi năm sau tôi mới bước chân về tới ngõ nhà chồng.” Bà khách lau nước mắt rồi đột nhiên bà hỏi em gái anh Thủ:
- Ông Chủ tịch xã còn sống không?
Bà em anh Thủ trả lời:
- Sống mà cũng như chết rồi chị ạ. Đi tù vì tội tham ô, về ngã khoèo chân bây giờ lẫn lộn cả đêm với ngày, ăn cả đất mà vẫn khen ngon. 
Bà khách thở dài. Đúng lúc có con tàu du lịch bóng nhóang chạy qua bóp còi bim .. bim. Cây mít còng người ta chặt từ lâu rồi, chỉ còn cái giếng vẫn nguyên như cũ . Bây giờ người ta gọi là giếng Tang. Chả biết có phải vì chuyện chị Nhượng treo cổ ở đó hay không? Vì còn có người bảo cái giếng là chỗ yểm vàng của người tàu từ hồi giặc Mã Viện.

Người làng kể lại rằng chiều ấy bà khách ngồi ở bờ giếng Tang rõ lâu.

Hà Nội 15/9/2015


Sunday, September 13, 2015

CÚC HỌA MI


Người đi đâu
Lọ Cúc Họa Mi trong căn phòng vắng
Em đẩy cửa mùa đông
Chạm vào dĩ vãng

Dĩ vãng heo may nghiêng xuống sông Hồng
Em về cuối phố
Tóc thề mùa lá cũ xôn xao
Có một loài hoa thấy thương thương

Những tia nắng mong manh như trăng vào mùa đông
Cồn cào về phía nhớ
Về phía tiếng rao đêm, tiếng thở
Phố thở dài tiếng guốc cũng bâng khuâng

Qua cầu đèn màu giăng giăng
Em gọi cúc họa mi dĩ vãng
Thu 2014

NGƯỜI LÍNH GIÀ ĐI TÌM ĐỒNG ĐỘI

Cầm tập tự truyện viết tay 28 trang khổ A4 chữ nhỏ li ti của anh Đoàn Văn Tuấn, một CCB người Uông Bí, nguyên là thượng tá đã về hưu, tôi vô cùng xúc động.
Phải tâm huyết lắm , phải dầy công lắm mới viết nên một thiên kí sự về chuyến đi tìm hài cốt đồng đội như thế. Nhưng trên hết tác giả phải là người lính can trường yêu thương đồng đội cả lúc chiến đấu và cả khi đã rời áo lính. Đọc anh tôi lại thêm tự hào đã là người lính cùng tiểu đoàn với anh những ngày chiến đấu ở chiến trường. Anh người lính C5 D8 Trung đoàn 64 Đoàn văn Tuấn.
Thoạt đầu tôi cũng nghĩ chắc hẳn anh vô Nam Lào tìm đồng đội mà đã từng ở cùng đại đội hay cùng tiểu đoàn với anh. Có thể vì anh là người đã chứng kiến hay tự tay mình chôn cất các liệt sĩ nên thân nhân liệt sĩ đến nhờ vả anh giúp đỡ. Đọc kĩ thì mới thấy ngạc nhiên và kính trọng cái nghĩa cử của một người từng là lính chiến, ở anh nghĩa tình đồng đội thật là sâu nặng nhưng cũng thật là rộng lớn.
Chuyện thế này.
Một ngày vào tháng 8 năm 2012, có một người đàn ông nhễ nhại đi xe máy từ Tiên Lãng, Hải Phòng lên Uông Bí . Người đàn ông trung niên ấy là con trai một liệt sĩ được Ban Liên Lạc, bạn chiến đấu Trung đoàn 48 ở Hải Phòng giới thiệu tìm đến Đoàn văn Tuấn. Lí do họ giới thiệu anh con trai của liệt sĩ đến với ông Tuấn là vì: Biết ông Tuấn đã mấy lần đi tìm hài cốt giúp thân nhân liệt sĩ. Nhưng nan giải lại là ở chỗ, sau khi nghe người con trai liệt sĩ trình bày thì mới hay, bố anh là liệt sĩ ở C3, D1 Trung đoàn 48 mà ông Tuấn thì lại là lính C5 D8 Trung đoàn 64. Là cán bộ trưởng thành lên cấp Trung đoàn, ông thừa hiểu đây là vấn đề khó. Nhưng cảm phục trước tấm lòng hiếu thảo của người con trai liệt sĩ, khi sinh ra chưa biết mặt cha đã 9 năm nay lặn lội từ Quảng Trị, Qui Nhơn , Phú Yên, Thừa Thiên lên Tây nguyên tìm cha. 
Ông Tuấn kể: Tôi đã phải rơi nước mắt khi nghe Cháu Úy, con trai liệt sĩ UY kể, cứ năm nay dành dụm được ít tiền thì sang năm đi, hết tiền mới về. Chín năm liền như thế, nhưng không làm cho cháu nhụt chí. Tôi nghĩ, dù đang trăm công nghìn việc lại sức khỏe không tốt lắm, dù địa bàn mà đơn vị anh UY chiến đấu tôi không rành, nhưng trong lòng tôi như thấy có điều gì mách bảo mà tôi không lí giải nổi, đó là tiếng gọi của anh UY , tiếng gọi của đồng đội của người lính Đồng Bằng thân yêu của tôi.

Hai tháng sau, ông Đoàn Văn Tuấn thu xếp mọi việc với gia đình, chuẩn bị thuốc men cho mình, lần tìm các đồng đội, hỏi han thu thập thông tin địa hình thu thập những tia mong manh từ trí nhớ các ông Bằng ( nguyên trung đoàn phó 48, ông Lương Văn Lai tham mưu trưởng trung đoàn lúc ấy..) rồi xuống Hải phòng để cùng con trai liệt sĩ UY lên đường vào miền N,am. Sáng 7/11/2012 ông Tuấn đến Quảng Trị. Từ đây nhiều khó khăn ách tắc về thủ tục sang Lào được các cơ quan và đồng đội ở Quảng trị giúp đỡ nên cuối cùng thì ông Tuấn và cháu Úy cũng sang được đất bạn cùng với đoàn 584 tìm kiếm.
Ông Tuấn kể tiếp.
Khỏi phải kể, bao nỗi vất vả khó khăn và có những lúc tưởng như tuyệt vọng trong cái nắng bụi mùa khô rừng Lào. Khỏi phải nói những lúc cả ông Tuấn và con trai liệt sĩ dìu nhau vừa khóc vừa động viên nhau hi vọng . Những lúc ấy tâm linh mách bảo ông, đồng đội dưới lòng đất kia đang chờ đợi người thân đến với họ. Tôi thấy các anh C3 D1 E48 ở rất gần tôi. Một tuần lễ trong rừng Lào với bản đồ địa hình trong tay tôi lại gặp những cái tên bả Sen Sen, bản A Lay Nhay, bản Na Móc Ka…Những cái tên trong chiến thắng đó là Đồng Hen, Pha Lan, Bản Đông. Đời người lính 320 mấy ai có được nỗi niềm như tôi được trở lại vùng chiến địa Đường Chín Nam Lào . Trở lại để thấy trong cây cỏ trong gió trong nắng nơi này có mùi tóc mùi máu đồng đội tôi. Trở lại đây để thấy những cái tên núi nay thế hệ trẻ biết trong sách sử. Những cái tên 456, 435, cái bản A La Nhay mà D9 của Trung đoàn tôi đánh trận đầu khi quân địch mới vừa đổ quân ngày 12/2/1971. Trong một tuần trong đất Lào khô cháy tôi gọi điện nhiều lần về cho Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến. Thủ trưởng theo sát từng bước đi và động viện chúng tôi rất nhiều. Tôi nhớ giọng Trung đoàn trưởng nghẹn ngào, cố tìm anh em mình đưa họ về Tuấn ơi. Chúng mình có lỗi với anh em nhiều lắm. Nói sao cho hết niềm vui khi tìm thấy 7 hài cốt các đồng đội C3 D1 trung đoàn 48 ở bản Na Móc Ka. Đó là ngày 18/11/2012. Không riêng gì tôi mà tất cả anh em đoàn 584, nhân dân các bản Lào quanh đó cung vui mừng khôn tả . Tôi trở về Việt nam và phấp phỏng chờ tin thử ADN. 
Niềm vui vỡ òa trong ngày 23/7/2013, khi các cơ quan chức năng tổ chức thông báo kết quả giám định ADN và trao trả hài cốt cho các gia đình Liệt sĩ. Thế là tôi và cháu ÚY ôm nhau mà khóc. Bảy gia đình thân nhân liệt sĩ đều của C3 D1 E48 hôm đó cũng nước mắt tràn trề . 
Những liệt sĩ c3 D1 E48 hi sinh ngày 6/3/1971 đó là:
1 Đỗ Quốc Uy Tiên Lãng Hải phòng
2 Vũ Xuân Dung, quê Quảng Ninh Vụ Bản Nam định
3 Đỗ Văn Thuận, quê Thành Lợi Vụ bản Nam Định
4 Đào Khắc Khôi, quê An ninh Quỳnh phụ Thái Bình
5 Nguyễn Bá Lại, quê Quỳnh Lưu Quỳnh phụ Thái Bình
6 Vũ Dương Tạ, quê Thị xã Hà Đông Hà Tây
Và một đồng chí quê Chi lăng Lạng Sơn mà tôi quên mất tên.

Kể từ ngày đưa được 7 đồng chí E48 về với gia đình trong lòng tôi luôn đau đáu mình phải trở lại đất Nam Lào này tìm đồng đội E64. Phải trở lại với 456 anh hùng , với thung lũng A La Nhay, phải trở lại tìm hàng trăm đồng đội đã hi sinh để làm nên chiến thắng lịch sử của trung đoàn 64, bắt sống Đại tá dù Nguyễn văn Thọ. Hai năm sau 7 anh em người Quảng Ninh chúng tôi gom góp tiền gia đình đi Nam Lào lần nữa. Chúng tôi đi vào tháng 4/2015. Chúng tôi lặn lội đến được 456 đến đồi không tên, đến được căn hầm đã sập nát của Đại tá Thọ ngày xưa. Điều kì lạ là ở đây chưa hề có dấu vết dân Lào đi tìm phế liệu. Dưới chân chúng tôi là đầu đạn pháo, là đạn cối và mìn. Chúng tôi dò dẫm và giở bản đồ dưới nắng để xác định hướng tấn công của đại đội mình ngày xưa. Thật không may , Ở đây tôi lên cơn đau tim , anh Lục ốm không thể đi được nữa. Cảnh vật thay đổi nhiều quá trong một thời gian đau ốm hạn hẹp chúng tôi chưa tìm được anh em còn nằm dưới đất này. Phải quay trở về mà lòng chúng tôi đau đớn. Đứng trên điểm cao 456 chúng tôi gọi tên 14 anh em cùng nhập ngũ với tôi ngày 16/2/1968. Gọi hương hồn những trai tráng lính Đồng Bằng. Gió lào ngàn ngạt thổi tung những chùm lá khô trên cao điểm cũ. Tôi cảm thấy như 44 năm các anh không ngủ, các đồng đội tôi đang gọi chúng tôi gọi tên đơn vị mình.
Sáng nay Đoàn văn Tuấn gọi điện cho tôi từ Uông Bí. Anh Luân ơi , còn khỏe còn đi được chúng tôi lại gom tiền đi 456 lần nữa. Chúng tôi hẹn nhau tháng 11 này lại sang đó với anh em mình. Tôi nghe như Tuấn đang nói về một chuyến đi thăm đồng đội vậy. Người lính già gần 70 tuổi nghèn nghẹn trong máy để anh em nằm đấy tội lắm ông Luân ạ
- Tấm ảnh trên cao điểm 456 dưới chân là căn hầm đại tá Thọ đã sập 
- Bom đạn vẫn nằm rải rác trên cao điểm 456