Thursday, June 15, 2017

Lễ chùa


Mãi tới cuối năm 1982 tôi mới đi làm. Vậy là 14 năm đèn sách và thời gian bộ đội kể từ ngày xa quê mới được nhận đồng lương đầu tiên đi làm. Làm Quản đốc cơ khí một xưởng chừng 50 công nhân cũng tiện điện nguội gò hàn 75 đồng một tháng. Tôi nằm gầm chạn trên Bưởi. Thòi ấy đói kém dã man. Quản đốc như tôi hơn công nhân mỗi tháng hai bao mùn cưa từ phân xưởng mộc . Một bao đun bếp nhà mình một bao bán 10 đồng đưa cho vợ. Sáng sáng cái cạp lồng lủng lẳng có vài quả cà hai gắp rau muống xào khan, gò lưng đạp xe dọc đường Hoàng Hoa Thám xuống sân Hàng Đẫy. 
Hà nội lúc ấy đẹp và buồn. Sương mù Hồ tây cũng buồn nhưng đẹp. Lá khô ven đường ngày ấy cũng hiền hơn bây giờ. Sáng sáng nó đậu nhẹ trên vai áo công nhân lặng lẽ trên xe đạp. Người ta chẳng để ý chẳng bịt khẩu trang kín mũi như bây giờ. Họ bình thản như nước mặt hồ tây mù hơi sương sớm. Hà nội Nghèo đến tinh khiết từ giọt cà phê và tiếng băng cối nhạc vàng lan từ trong nam ra vài năm nay. NHững năm 80 vang tiếng súng ở hai đầu biên giới Hà nội buồn bực nín chờ những cặp mắt buồn trên những trang nhật trình cũng buồn.
Có một người đàn bà biết tôi. Chị người làng Hồ khẩu lấy chồng mạn ngược quê tôi, đi bè củi nứa măng tre. Chị gặp tôi và bảo, chú đi làm đèo xe cho tôi xuống chợ chiều đèo về tôi trả chú 20 đồng tháng. Ôi tốt quá, vậy lại thêm tiền cho thằng con trai có miếng chả quế. Vâng em cám ơn chị. Chị ấy phốp pháp. Tuổi bốn mươi nhưng búi tó, da trắng như ngó cần. Đi chợ có nhõn cái bao tải xuống phố Nguyễn Thiệp lấy đồ quần áo mẫu vải gửi nhà dân ra ngồi dưới gầm cầu. Chiều lại cắp bao tải đi xích lô về. Nay có anh cu còn trẻ đến đèo xe đạp chả oách hơn sao. Mỗi lần tôi xuống chợ làm xe ôm cho chị , bạn chợ nhìn chị nhấc cái mông oằn phuộc pa ga bụm miệng cười. Chị cũng cười bám lấy eo tôi cấu cái ra tuồng yêu quí lắm. Mùa đông thì đỡ chứ mùa hè nhọc lắm. Chị nặng hơn tôi nhẽ đến dăm kí. Mông ngực dân kẻ chợ bao giờ cũng khác người quê. Nó ngốt ngát ngai ngái và lại nhiều mồ hôi. Cái xe đạp khung miền nam 24 đồng ngày xưa thế mà khoẻ đáo để. Cót két nhẫn nại và tháng tháng thêm 2 chục bạc lại thi thoảng cái bánh miếng đậu về cho con. Sự ấy có thể còn kéo dài nếu không có một lần cơ quan và chi bộ đảng họ phát hiện ra tôi làm xe ôm cho một tiểu thương phe phẩy.

Năm ấy 1984. Thằng con trai nhớn nhà chị đi lính trên biên giới Hà Giang uỳnh nhau với giặc Trung quốc. Chị nghe bạn của con về kể khiếp đảm lắm. Chị bồn chồn. Cái bồn chồn của người đàn bà dễ nhận ra lắm. Ngồi sau xe đạp tôi cót két trên đường Quán Thánh lên Thụy khuê chị thở dài nóng cả lưng. Xuống xe ơ cổng đình làng Hồ chị bảo :
- Chú về ăn cơm rồi chở tôi đi Cự Khê được không? 
- Ngay tối nay ha chị? 
Chị ừ
- tôi về tắm táp rồi chú xuống chở tôi đi lễ chùa. Thằng nhớn nhà tôi căng lắm thầy bảo thế. Rồi chị với theo riêng hôm nay tôi trả chú 2 chục.
Chập tối cơn giông, con đường xuống cầu Bươu vắng hoe. Tôi gò lưng đi ngược gió lúc rẽ từ cầu Bươu xuống lối về Cự Đà trời tối chị ngồi sau ôm lấy tôi. Gió ấm ức vì trời khó mưa. Chị nói :
- Anh nhà tôi chết sớm bỏ lại tôi hai đứa con, lấy anh Quỳ hai đứa nữa là bốn mà vẫn lại không chồng. Khổ lắm chú ạ.
- Vâng chị khổ lắm em biết ạ.
Con sông Nhuệ hai bên là lúa và làng cổ với những hàng cây muỗm cũng cổ thụ im lìm. Đom đóm đã bay ra, mùi đồng lúa mùi ven sông có những vạt khoai mon tanh tanh dễ chịu thế. Chỉ một lần tôi đến ngôi chùa Cự Đà mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ nó đẹp trầm mặc và uy nghi. Khi tôi và chị đến chùa thì trong chùa đèn nến sáng lắm. Ngôi nhà ngang đằng sau có nhẽ mươi người đàn bà nạ dòng nhưng đẹp cỡ chị trở lên đang pha nước nhai trầu. Các chị các bà nhìn tôi rõ kỹ còn tôi thì không dám nhìn ai . Tôi cảm giác họ đang đo đếm dáng đi thần sắc của tôi. Tôi vội quay trở ra. Ngoài sân, chùa loang lổ tối, nhìn vào chỉ thấy những pho tượng tướng quân phừng phừng khí thế và long đao bát xà mâu nghênh ngang đỏ chóe. Lúc ấy đang mùa vải. Có tiếng tu hú kêu ngoài sông Nhuệ. Tôi gọi chị, nói tôi về. 
Chị ra đứng áp vào tôi. Nghe ngan ngát mùi nước hoa lẫn mùi lá bưởi bồ kết. Nghe thấy cả trống ngực chị thình thịch dịu dàng. Nếu chú ở lại tôi bố trí ngủ. mai thụ lễ rồi mình về. Nếu về luôn thì …thôi tiền đây chị trả trước chiều mai chú đón chị. 
Tôi kẽo kẹt ra về có hai mươi đồng trong túi lại có mấy hoa quả chị gói cho mang về cho con. Hà nội ngày ấy ít xe máy ô tô nên chả lo tắc đường. Chỉ sợ tối , sợ mấy chú trấn lột. Mà trấn lột tôi cũng chả sợ. Có cái khỉ gì mà sợ.

Chả biết đứa nào nó nhìn thấy tôi đi vào chùa Cự Đà đêm hôm ấy mà hai hôm sau ông Giám đốc XN kiêm bí thư chi bộ gọi tôi lên họp chi bộ. Nội dung họp là kiểm thảo quan điểm mê tín dị đoan của đảng viên cán bộ chủ chốt. Người bị kiểm điểm là tôi. Thế là tôi bị phê bình nghiêm khắc. Rất nhiều ý kiến sỉ vả. Nhất là con mẹ trưởng phòng tài vụ năm ấy cũng chỉ hơn tôi 2 tuổi. Tất nhiên là tôi không cãi, tôi nhận khuyết điểm. Tôi nói tôi đưa bà chị đi lễ chùa. Thế thôi. Thế là cái hợp đồng đèo chị đi chợ phe phảy đứt phựt. Tội này chi bộ mà biết còn to nặng hơn đi chùa. Chị ấy buồn và lại đi xích lô đi tàu điện ra chợ. Tôi cũng buồn vì mất khỏan thu nhập chính đáng . Cũng may sau đận ấy con trai chị bị thương ở biên giới ra quân về lại theo nghề chị buôn vải dưới chợ Bắc Qua. Chị cũng gần tám mươi tuổi nhà giàu phết và vẫn đi chùa. 
Hơn ba mươi năm sau tôi mới biết người nhìn thấy tôi vào chùa Cự Đà năm ấy chính là Trưởng phòng Tài vụ xí nghiệp. Chị ta cũng đi chùa và ngồi trong đám nạ dòng dưới nhà ngang đêm ấy.

Hè 2017

No comments:

Post a Comment