Tuesday, March 2, 2021

XEM PHIM BÃI Ở LÀNG. ( trích trong " Chuyện làng " )


Tính theo dọc đường tàu về phía ga có hai xóm. Đấy là xóm « Cầu Đất » và xóm « Cầu Tây ». Cái tên nó đã chỉ chính xác tình hình địa lí giao thông rồi. Xóm Cầu Đất có cây cầu lát bằng thân cây cọ rồi đổ đất lên. Còn xóm Cầu Tây là xóm ở gần cây cầu trên đường tàu hỏa. Cầu này Pháp xây dựng đường tàu hỏa mà có cầu. Đích thị là cái cầu thằng Tây làm.
Người hai xóm tính tình khác nhau rõ rệt. Xóm Cầu Đất rặt những nhà chuyên đơm đo đánh dậm. Mùa đông thì soi cá ngủ cá cóng. Mùa hè thì be bờ lại đơm đo. Chuyện đo đơm là cả một thú vui mà khoa học đáo để. Sẽ viết sau.
Thời ấy những ruông sâu chỉ cấy một vụ mùa. Từ tháng 11 dương trở đi bỏ trắng. Cá tôm nhiều lắm, đỉa cũng nhiều như cá. Sang mùa hè nắng oi ruộng rạ đã thối ai muốn be cái ruộng nào chỉ cắm cây nêu lên đó sí phần. Sí phần rồi là không ai xâm chiếm nữa. Chuyện này thành lệ từ hàng trăm năm. Thường thì tháng tư tháng năm ngập nước, bốc bùn be bờ cho cao, rồi mở 4 cái chổ bốn góc chừng một mét. Rang thính bằng cám gạo cho thơm, chập tối trộn với đất khô ném xuống ruộng. Mà quải thính cũng phải nhẹ nhàng đừng có ùm ùm động nước là cá đi hết. ( Bây giờ lũ trẻ gọi là thả thính) Cá theo bốn cái cửa vào ăn rất nhiều. Nửa đêm bịt bốn cửa lại đặt cái đó ở đấy. Cá tôm muốn chuồn ra là chui vào đó. Đúng là đơm đó.
Đơm đó có cái thú vui là ngủ ngoài bờ ruộng mà trông đó. Đêm khuya đừng có mà ngủ quên. Ngủ quên rất dễ bị người khác đi đổ đó của họ tiện thể họ đổ luôn của mình. Hồi tôi lên chín lên mười tuổi đã có ruộng đo đơm riêng rồi. Mẹ tôi không cho đi ngủ đêm trông đó, nhưng tôi thích đi theo các anh lớn ra ngoài đình đầm Hà. Đêm, trải mấy tầu lá cọ trên bờ đầm nghe các giai làng tán phét, nghe lõm tõm cá quẫy vui đáo để. Đi ngủ ngoài đồng trông đó chỉ để nghe các anh lớn nói chuyện đàn bà, chuyện tiếu lâm. Có nhiều chuyện tôi nhớ đến tận bây giờ. Có những chuyện nghe mãi đến lớn mới hiểu.
Người Xóm Cầu Đất hiền hơn xóm Cầu Tây. Bố tôi bảo, xóm Cầu Tây là xóm ngụ cư tứ chiếng. Họ dưới xuôi lên, quen chạ người nên họ khôn. Hỏi chạ người là thế nào? bố tôi bảo là đông người thì phải va chạm nhiều mà va chạm nhiều thì phải chống chọi nhiều nên khôn. Ra thế, sau này về Hà Nội thấy đúng. Hà Nội chạ người nên họ khôn thật. Càng chạ người, người càng khôn. Giống như người hàng chợ mà nhất là chợ to như Bắc Qua Đồng Xuân thì họ khôn dã man. Khi bố tôi còn sống có lần bố bảo tôi, may mà “thằng cu” ra Hà Nội sống chứ không thì đen đủi cóc cáy như thế này sao mà mở mặt ra được.
Hòa bình mới lập lại vài năm là dân quê tôi được xem phim. Điện ảnh của Đảng đi về tận vùng sâu vùng xa. Tôi nhớ lắm. Lần đầu tiên tôi được xem chiếu phim ( quê tôi gọi là chớp bóng ) là năm 1958. Bộ phim đầu tiên tôi được xem là phim Liên - Xô. "Ngọn lửa không bao giờ bị dập tắt". Từ vài hôm trước họ loa loa váng cả xóm làng. Tôi nhớ như in giọng anh chớp bóng đi phát thanh các xóm …"A lô a lô. Thưa toàn thể đồng bào. ( ngừng lại) Đội chiếu bóng lưu động số 20 chúng tôi về đây phục vụ đồng bào hai bộ phim.( lại ngừng lại) . Bộ phim thứ nhất : Ánh bình minh. Bộ phim thứ hai Ngọn lửa không bao giờ bị dập tắt. Phim chiến đấu của Liên xô. Giá vé người lớn một hào, trẻ em năm xu. A lô a lô."
Thế là hôm sau thanh niên làng cử người đi khiêng máy nổ. Chao ôi, máy nổ nó nặng còn hơn con trâu cà nhà tôi. Khi nổ máy, nó chạy xình xịch, phả khói mùi khen khét thích thế. Mấy ngày đó làng xóm chộn rộn nôn nao, chỉ mong chóng đến tối. Hôm chiếu phim, các ngả đường làng trên xóm dưới người gìa trẻ em tấp nập. Họ đến sớm lắm. Trẻ con mang cả đóm nứa đã dập sẵn để lúc về soi đường. Người lớn mang cả chai nước cho con, lại còn lôi cả tàu lá cọ kê đít ngồi. Nhà tôi giữa làng gàn ngay đường tàu chả phải đi xa. Nhìn lũ bạn xóm xa cũng thấy tự hào. Tự hào vì nhà ở gần bãi chớp bóng. Khi máy nổ xình xịch được một lúc rồi đèn bật lóe sáng. Lúc đèn lóe lên là cùng với tiếng òa lên của dân làng. Ánh sáng điện bùng lên như sức sống mới lạ lẫm vô chừng. Người nhà Phim họ căng dây khoanh bãi đễ soát vé. Một vé năm xu. Để có 5 xu phải mất một giỏ cua bán ở chợ Đan Thượng mới xong. Đứa nào không bắt cua thì một gánh củi. Dậm dịch kiếm tiền từ hôm trước. Tôi nhớ cái ánh đèn điện ở cổng soát vé bãi chiếu bóng làng tôi thủa xưa như một sự khai sáng. Nó khai phá những cái đầu u mê của mình, nó bắt đầu cho sự ước mơ thèm khát ra đi của tôi và các em tôi. Thú thật nhờ có cái đội chớp bóng nên mới bé tôi đã thuộc những bài hát thuộc loại « đi cùng năm tháng ». Từ lúc còn ban chiều họ đã mở thật to những bài hát trên 2 cái loa to như cái thùng gánh nước treo trên lưng chừng một cây tre. Nào là « Chiếc khăn Piêu », rồi « Buổi sáng trên nông trường », lại cả « Bên ven bờ Hiền lương » « Tình trong lá thiếp ». Mấy năm sau có bài «Tình ca » của Hoàng Việt. Cả làng tôi thuộc Tình Ca. Mấy chị thanh nữ đi cấy ruộng, đít chổng lên trời í ửn hát ... qua núi biếc chạp chùng xa xa ... rồi hát "Tình trong lá thiếp", hát chiếc khăn piêu. Các chị hát rằng « ….cầm lá thiếp này lòng hướng vô Nam… ». Tôi nhớ những câu .. hò ơi thuyền ơi có nhớ bến chăng bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền ...sao mà trẻ con như tôi cũng thấy man mác. Trông mấy chị nhấp nhổm cấy lúa theo nhịp hát mà si mê. Sau này lớn lên mới hiểu về chuyện tập kết của cán bộ chiến sĩ miền nam. Nhớ lại những bài hát nghe từ thửa trẻ con lại càng hiểu nỗi lòng "ngày Bắc đêm Nam" của những người tập kết.
Cũng nhờ có chiếu phim mà chúng tôi biết được đàn ông đàn bà họ hôn nhau thế nào. Chính xác là năm ấy tám tuổi, nhìn họ hôn nhau trên màn ảnh cũng đần cả mặt. Lạ thế !
Cho tới bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao quê mình có truyền thống hát Xoan mà mình chả biết tí Xoan ghẹo nào cả. Chả nhẽ Xoan nó chỉ đến Hưng Hóa là hết đường đi ngược? Nhưng mười tuổi tôi đã biết hát chèo. Hát chèo chả riêng cho một tỉnh nào, nó sống với sự phát triển của lúa nước đồng bằng Bắc bộ lâu lắm rồi nên người quê tôi biết cũng là dễ hiểu. Nhưng, cho tới năm 1962 khi có chủ trương đưa người vùng xuôi lên khai hoang miền ngược thì chèo mới rộ lên ở quê tôi. Thế rồi hát chèo như tự thân trong mỗi con người làm ruộng miền Bắc phải có. Ngày ấy đồng bào huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam di dân lên quê tôi đông lắm. Đảng và Nhà nước đưa họ đi chứ không phải họ tự đi. Người người lớp lớp bồng bế đìu díu đến là thương. Nhưng sự khổ ải với họ không lâu. Họ lao vào làm đồi rừng, làm ruộng với quyết tâm phi thường. Dân quê tôi từ ngạc nhiên đến dần dần bị cuốn hút theo cái tính chịu khó của họ mà làm ăn. Những bà con dưới xuôi lên dần thành khá giả cả. Khai hoang thật là sáng suốt.
Dù vất vả lam lũ đến mấy, tối tối các bác các chị các anh người Duy Tiên Hà Nam lại tập trung ra sân kho HTX để hát chèo, tập diễn những vở chèo cổ mang từ dưới xuôi lên. Cơm nuốt vừa xong bát đũa còn bỏ đấy họ đã ra sân kho, lên dây nhị dây líu, so tiếng sáo cứ ò e véo von vui lắm.
Lần đầu tiên quê tôi được ngồi xem Trương Chi, xem “Lưu Bình Dương lễ” xem “Cây đa bến Cốc” xem Súy Vân giả dại … Nước mắt tôi cứ dàn dụa. Chả cứ gì tôi, cả sân kho xịt xoạt khóc. Những chị những bà ban ngày làm đồng làm nương hóa thân vào vai diễn cảm động đến thế. Lũ trẻ con chúng tôi bây giờ cũng võ vẽ hát theo. Tôi dần dần cũng biết hát điệu: Gà rừng, hát Sẩm soan. Tụi con gái thì thích mấy điệu lới lơ, Đào liễu, Sắp qua cầu …Buồn buồn thì hát Sa lệch chênh hát Xắp dựng hay điệu Sử dầu… Lớn lên đi bộ đội trên đường Trường Sơn cứ nghe hát chèo đêm khuya là nhớ quê đến nao lòng. Lúc ấy hình ảnh các chị áo cánh nâu ngực căng thấm mồ hôi mê mải diễn chèo cả trong lúc máy bay Mĩ gầm gào trên đầu. Lúc ấy mới thấy quê mình thiêng liêng trìu mến biết bao. Chả biết những người đi tận bên trời Tây sống biền biệt có nhớ về làng giống như tôi không? Với tôi, chuyện làng như một liều thuốc bổ cho người lính vượt Trường Sơn đầy những bom đạn ngày xưa và cả đến bây giờ khi tôi cư ngụ ở nơi phố thị. Những câu chuyện làng như một sợi dây vô hình níu người xa xứ với nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Ai không có câu chuyện làng nào đích thị là người đã hết quê.

No comments:

Post a Comment