Thời trai trẻ hào hoa
Bút ký. ĐỖ TIẾN THỤY
____________________
Ba mươi lăm năm trước, ngày 15-9-1972, tại đồi Cây Thị, huyện Phú Lương,
Bắc Thái, Tiểu đoàn 76-F304B đã làm lễ tuyên thệ chiến sĩ mới cho 500 chàng
trai nguyên sinh viên các trường Đại học Y khoa Việt Bắc, Đại học Cơ điện Bắc
Thái, Đại học Sư phạm Thái Nguyên...Chiến trường thúc giục, người người xung
phong, nhiều người viết đơn bằng máu xin ra trận thì những chàng sinh viên khó
có thể yên tâm ngồi trên ghế giảng đường. Chất hào hoa sinh viên được trui rèn
qua lửa đạn nên những chàng trai ngày ấy bây giờ nhiều người thành đạt. Chuyện
sẽ là bình thường nếu như không có một ngày, hai ông lính ngày xưa một là Đinh
Ngọc Sỹ, giờ là Giáo sư tiến sĩ Giám đốc bệnh viện Lao Trung ương và một là Nguyễn
Trọng Luân, giờ là Giám đốc xí nghiệp thép Công ty kim khí Hà Nội rủ nhau làm một
chuyến vào Nam đến những nghĩa trang thắp hương cho những người bạn cũ. Bắt đầu
từ nghĩa trang Hải Lăng, Quảng Trị, đến những nghĩa trang dọc các tỉnh nam
Trung bộ, rồi cuối cùng dừng lại ở nghĩa trang huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí
Minh. Mỗi nghĩa trang hai ông dừng lại một đêm. “Chúng tôi chẳng tài giỏi gì,
chỉ là những người may mắn sống sót qua bom đạn. Chúng tôi vào đây cùng các bạn
để ôn lại một thời trai trẻ!”. Khấn xong, hai ông mắc võng ngay trong nghĩa
trang cạnh những ngôi mộ trò chuyện rầm rì. Những kỷ niệm buồn vui trong những
cuộc hành quân, những trận đánh, những bữa ăn giấc ngủ…đã làm sống lại một quá
khứ của một thế hệ sinh viên tòng quân cứu nước. Và thế là một câu hỏi bung ra
sau những đêm nằm trong nghĩa trang hun hút gió lùa: Có bao nhiêu người trong
Tiểu đoàn 76 đã nằm lại chiến trường và bao nhiêu người trở về? Câu hỏi đó đã
thôi thúc một ý tưởng, và rồi một cuộc gặp mặt tại đồi Cây Thị đã được tổ chức.
Ba mươi hai năm trôi qua, cuộc sống xô đẩy mỗi người mỗi hướng, vậy
mà chỉ cần một tín hiệu phát đi bằng tin nhắn, mấy chục con người rải rác từ Hà
Nội, Hải Phòng, Tuyên Quang, Bắc Thái…đã bằng mọi cách tìm về. Thế mới biết, dẫu
vật đổi sao dời nhưng tình cảm của những người đã cùng vào sinh ra tử không hề
phai nhạt. Những mái đầu điểm bạc, những gương mặt phong sương còn hằn dấu ấn
lo toan bất chợt sáng bừng bởi những giọt nước mắt trong veo tuôn trào cùng những
nụ cười méo xẹo. Mấy chục ông già bỗng hóa thành trai trẻ. “Ôi thằng Dương! Mày
còn nhớ tao không?”. “Nhớ chứ! Mày là cái thằng Luân ngày ở Tây Nguyên đã viết
bài thơ đón huân chương của đơn vị chứ gì”. “Mày vẫn nhớ cơ à?”. “Tao không những
nhớ mà còn thuộc nữa kia”. Nói rồi ông già hồn nhiên đọc ngay. Cả đoàn cựu chiến
binh vỗ tay rào rào sau khi bài thơ kết thúc. Người đọc bài thơ kéo một người đến
trước mặt Nguyễn Trọng Luân: “Mày có nhớ thằng này không? Thằng Nguyễn Văn Lệ đã
cắm cờ ở căn cứ Đồng Dù và Củ Chi đấy. Còn thằng này là Trần Xuân Thiện, cái thằng
đã bắn 3 phát B41 hạ 3 chiếc xe tăng trên đường 7 đây…
Qua những lời thoại hồ hởi, nghẹn ngào, cả một quá khứ được tái hiện.
Đây là anh chàng Hoàng Minh Dương sôi nổi đến nhiệt cuồng, trước ngày
đi B đã “tự thưởng phép” để về thăm người yêu, khi làm bản kiểm điểm đã rất uyển ngữ, chỉ nhận mình là… “đi chơi quá
thời gian qui định” chứ không phải đào ngũ! Và cũng chính Dương, khi vào mặt
trận đã chiến đấu cực kỳ thông minh dũng cảm, trở thành dũng sĩ và được kết nạp
Đảng đầu tiên trong bạn bè cùng lứa. Sau giải phóng, cấp trên muốn giữ Hoàng
Minh Dương để phát triển cán bộ nguồn nhưng Dương đã khăng khăng đòi về: “Trước
khi đi tôi đã hứa giải phóng xong miền Nam là về học tiếp. Tôi phải giữ lời hứa
ấy”. Để thể hiện quyết tâm, Dương xung phong nhận…chăn một đàn bò, chờ ngày xuất
ngũ! Và Dương đã toại nguyện, được trở về trường học tiếp, trở thành Giám đốc
Nhà máy cơ khí Cao Bằng, rồi Phó Giám đốc Nhà máy Giày xuất khẩu Thái Nguyên.
Giờ Hoàng Minh Dương đã nghỉ hưu nhưng tâm tính vẫn như những ngày đầu nhập ngũ.
Với gương mặt phong trần có phần bụi bặm, ông luôn luôn phản biện lại tất cả những
gì anh em đưa ra khiến cho người lần đầu tiếp xúc rất khó chịu. Nhưng ai đã từng
sống với ông sẽ hiểu, bên trong vẻ bỗ bã ngang ngạnh của ông là một tấm lòng ấm
nóng đôn hậu vô cùng. Cứ nhìn vào cặp mắt rân rấn nước của ông khi nghe nhắc đến
bạn bè thì đủ biết.
Và kia là anh lính Đỗ Minh người Hà Nội, sinh viên y khoa nhưng say
mê âm nhạc đến nỗi mất ăn mất ngủ, tự mầy mò đục đẽo để làm được một cây đàn
guitar giữa chiến trường. Lính ta rất khoái chiếc đàn được làm bằng gỗ thùng đựng
đạn và dây phanh xe đạp, có âm thanh “lừng phừng khác đời” ấy, nên cổ vũ rất mạnh.
Chiếc đàn ấy chơi được tất cả các giai điệu, từ nhạc hành khúc, nhạc trữ tình
cho đến cả…chèo! Không hiểu sao những chàng lính sinh viên ngày ấy lại mê chèo đến
thế? Một thống kê bất chợt đã cho thấy rằng: Những tay trở thành dũng sĩ của đơn
vị đa phần hát chèo rất hay. Mỗi mùa mưa đến, lính ta bắt đầu tập chèo để tham
gia hội diễn. Tập rất công phu, mời “thầy chèo” xuống dạy đàng hoàng. “Thầy chèo”
là một anh lính trẻ măng đeo quân hàm trung sĩ nhưng được rất nhiều người nể phục
bởi đa tài, bởi ở chiến trường Tây Nguyên ngày ấy anh là một cái tên rất nổi,
không chỉ về thơ, truyện, bút ký…mà còn nổi tiếng về dàn dựng các tiết mục sân
khấu hội diễn. Người ấy chính là nhà văn Khuất Quang Thụy bây giờ. Bài chèo đầu
tiên Khuất Quang Thụy dạy cánh lính sinh viên là điệu Đường trường thu không trong vở Trần
Quốc Toản ra quân. Nào, ai còn nhớ thì hát lên! Một câu xướng bắt nhịp, mấy
chục cựu chiến binh đồng thanh hát theo:
Bóng ơi, bóng ngả/ Tiếng trống đã thu không/ Ông nguyệt lặn/ Tiếng trống đã thu không/ Nghe
hiu hiu gió thổi non bồng / Lâng
lâng…
Ông cựu chiến binh Đỗ Minh giờ không còn chiếc đàn guitar tự
chế, nhưng tình yêu âm nhạc thì đã ngấm vào máu rồi nên ông vẫn đầu lắc lư, tay
vỗ bàn đệm cho các bạn. Ngày trước ở chiến trường lính trong đơn vị kháo nhau: Giải
phóng về thằng Minh sẽ đi học Nhạc viện, trở thành nhạc sĩ viết nhạc giao hưởng!
Chính Đỗ Minh cũng nghĩ mình sẽ bỏ ngành y để theo đuổi ngành âm nhạc. Nhưng rồi
anh đã trở về trường y học tiếp, để bây giờ trở thành Phó trưởng khoa Hồi sức Cấp
cứu bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên. Cái quyết tâm theo đuổi ngành y của anh lính
Đỗ Minh có lẽ được củng cố từ cái buổi chiều cách đây ba mươi hai năm, lúc mà
quân đội Việt Nam Cộng hòa bỏ cao nguyên Trung phần rút về duyên hải miền Trung
tạo nên một cuộc tháo chạy hỗn loạn trên
đường số 7 kéo theo cảnh loạn ly tang thương của gia đình binh sỹ ngụy quân ngụy
quyền. Vợ chồng con cái lạc nhau gào thét khản giọng trong tiếng súng tơi bời. Những
người đàn bà bụng mang dạ chửa đã kiệt sức trong cơn binh lửa chỉ nằm chờ chết bên
vệ đường đoạn Cheo Reo- Phú Bổn. Những đứa trẻ sơ sinh bị vùi lấp trong đống xác
chết kinh người…Trên đường truy kích địch, những người lính giải phóng nhìn những
cảnh ấy mà ứa nước mắt. Xếp súng sang một bên, những người lính vốn là sinh viên
Đại học Y khoa xắn tay áo cứu người. Một nồi quân dụng to được dùng nấu nước.
Những chiếc dao găm được mài sắc. Bông băng cá nhân được tập trung lại…Những người
lính chiến thoắt trở thành những thầy thuốc. Hai bác sĩ Đỗ Minh và Đinh Ngọc Sỹ bồi hồi nhớ lại cái cảm giác rất lạ khi các ông
cùng đồng đội đỡ đẻ cho hơn chục ca sản phụ là vợ con binh sỹ ngụy. Trước mắt Đỗ
Minh và Đinh Ngọc Sỹ lúc ấy chỉ còn là những cơn đau sản phụ và những sinh linh
đang đòi được làm người. Bất chấp hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu thốn phương tiện
y tế, bằng những kiến thức y khoa đã học ở trường, những người lính Bắc Việt đã
trở thành những bà mụ mát tay cho những đứa trẻ chào đời ngay nơi ngổn ngang chết
chóc. Cả đơn vị tíu tít xúm vào làm một thứ công việc ngòai dự kiến một cách tự
nguyện. Chính trong buổi chiều ngày 18-3-1975 trên đường 7 mịt mù khói súng ấy,
khi xuống suối múc nước về nấu phục vụ cho đồng đội đỡ đẻ, chàng lính sinh viên
Nguyễn Văn Chới quê Chương Mỹ, Hà Tây nghe tiếng kêu cứu trong bụi rậm. Anh điếng
người nhìn thấy một người mẹ ôm đứa con mới mấy tháng tuổi bị thương máu ướt đầm
đìa. Anh cuống quít cởi áo nhúng nước lau máu cho cháu bé rồi ôm thốc về tuyến
sau cấp cứu. Đứa bé đã được cứu sống nhưng Nguyễn Văn Chớc thì bây giờ không ai
nghe tin tức. Chớc còn sống hay đã hy sinh?
Buổi gặp mặt không có chương trình nghị sự chính trị, chỉ có những câu
chuỵên thời quá khứ với những chi tiết sinh động vô cùng, chỉ người lính chiến
mới có, thách đố tất cả những tưởng tượng. Dọc đường hành quân gian nan có bao
nhiêu hiểm nguy rình rập nhưng cũng có biết bao thú vị đón chờ. Trước đói khát và
bệnh tật, những chàng lính sinh viên đã có những sáng tạo độc đáo đến không ngờ.
Chuyện kể rằng, phụ nữ Tây Nguyên rất thích…cooc-xê! Họ sẵn sàng đổi một cái cooc-xê
bằng những sản vật quí hiếm. Nhưng giữa rừng xanh núi đỏ thì đào đâu ra những
thứ đồ xa xỉ ấy? Nhưng chả lẽ lính ta chịu đói trong khi các bộ ngực trần của
phụ nữ Tây Nguyên đang khát khao với vật tri âm? Tình thế đã gợi ý, những chàng
lính sinh viên tức thì trở thành những nhà
thiết kế cooc-xê trác tuyệt. Chỉ với ít nguyên liệu là vải diềm vỏ chăn và
diềm mũ tai bèo, những bàn tay vốn cầm bút cầm súng quay sang cầm kim khâu rất
dẻo. Những cái cooc-xê xanh xanh màu sự
sống được những chàng lính sinh viên mang vào làng “tiếp thị”. Những cô gái
Tây Nguyên thật thà như đếm, họ hồn nhiên ướm thử và định giá tức thì những mẫu
bộ đội chào hàng: “Ô, cái này to, đẹp, mình đổi cho một con gà hết lớn. Cái này bé quá, mình đổi cho một
con gà bé bằng con quạ thôi!”. Nghe vậy, cả dân và lính cười vang một góc rừng…Ít
ai nghĩ trong chiến tranh ác liệt lại có những khoảnh khắc thanh bình đến thế.
Trong buổi gặp mặt này có một
người được anh em rất kính nể. Đó là ông Vũ Xuân Diệu, nguyên Chính trị viên đầu
tiên của một đại đội thuộc Tiểu đoàn 76. Trước cuộc gặp này, mọi người ráo riết
tìm cho bằng được người cán bộ cũ của mình. Ông Diệu nghỉ hưu đã lâu, nhà ở cạnh
Hồ Tây. Sợ ông tuổi cao sức yếu ngại đường xa, Hoàng Minh Dương điện thoại về
khích tướng: “Bác lên đây, em và bác vật nhau như ngày xưa ở Trường Sơn!”. Nghe
thế, ông già 70 tuổi nhưng lưng rất thẳng, mắt rất sáng cười vang: “Tôi còn khỏe
chán, vật nhau sợ cậu thua thôi!”.
Ngày xưa ông Diệu đã rất phập phồng lo lắng khi lĩnh trách nhiệm quản
lý “mấy ông tướng” sinh viên. Nhiều người nói, lính sinh viên có tri thức, có
nhiều tài lẻ nên hay tự cao tự đại, cán bộ không “cứng” là họ bẻ lại ngay. Ông
Diệu lắng nghe hết những thông tin ấy và chủ động hòa nhập tìm hiểu. Và cú “vấp”
đầu tiên giữa cánh lính sinh viên với cán bộ đơn vị đã khiến ông Diệu suy nghĩ
rất nhiều. Ở một chặng dừng chân trên đường Trường Sơn, một nhóm chiến sĩ đã rủ
nhau ra suối dùng lựu đạn đánh cá. Không may một mảnh đá đã văng trúng mặt một
người. Đơn vị lập tức tập hợp sinh hoạt kiểm điểm. Buổi sinh hoạt kéo dài cả đêm
với những quan điểm được nâng lên tột cấp. Bây giờ, sau hơn ba mươi năm, ai cũng
tránh nhắc đến những từ ngữ mà cán bộ chính trị đã nói hôm đó, nhưng ai cũng nhớ
cái không khí lặng phắc ngột ngạt chứa đựng sự phản ứng ngầm khủng khiếp của những
người giàu lòng tự trọng. Đối với những những người lính sinh viên, chỉ một lời
nói nhẹ nhàng đã khiến họ day dứt khổ sở lắm rồi. Đằng này… Sau sự kiện đó, không
khí toàn đơn vị như có một đám tang u ám.
Là một chính trị viên, ông Diệu có trách nhiệm phải tìm hiểu tâm tư
nguyện vọng của anh em. Sau một thời gian gần gũi, ông mới phát hiện ra rằng, bên
trong lớp áo chiến binh của những chiến sĩ do ông quản lý là những tâm hồn cực
kỳ phong phú và nhạy cảm. Họ cần được chia sẻ bằng sự đồng cảm thay vì những mệnh
lệnh cứng nhắc khô khan. Hiểu được điều đó, ông bắt đầu thay đổi. Ông chủ động
xóa bỏ khoảng cách bằng việc cùng họ đọc chung một cuốn sách, bình một bài thơ,
cùng họ đi hái rau rừng…và khi nóng thì tất cả cùng ào xuống suối thực hiện bài
“tắm tiên” vui vẻ. Ông trân trọng họ bởi dù trong hoàn cảnh chiến trường nhưng
tình yêu chữ nghĩa của những người lính sinh viên không một phút nguôi quên. Họ
tận dụng tất cả từ giấy gói lương khô, vỏ bao thuốc lá, giấy gói thuốc nổ…để viết.
Bí quá thì họ chặt ống lồ ô, lột bỏ phần cật, còn lại phần trắng, xỏ một chiếc
que qua ống thế là có một cuốn “vở xoay” cắm ngay chỗ ngủ dưới hầm. Tất cả những
sáng tác thơ văn nhạc họa của họ đều được viết trên những cuốn “vở xoay” độc đáo
như thế. Khi vào đến Tây Nguyên, ông Diệu bàn giao những chàng lính sinh viên
cho đơn vị mới, và trong hành trang quay ra Bắc của ông có một tập hợp thơ của lính
sinh viên viết các loại giấy được ông trân trọng lưu lại suốt ngàn dặm hành quân.
Tập thơ ấy trở thành một sự kiện ở Quân khu và ông Diệu bỗng trở nên nổi tiếng.
Tập thơ được những cán bộ tuyển quân và những tân binh đang rèn luyện chờ ngày đi
B chuyền nhau đọc. Và có những bài thơ vẫn được mọi người thuộc đến bây giờ:
Ta lại gặp những chàng trai
chân đất
Một nắm rau khoai, một đùm
cơm vắt
vẫn săn gân trong những
chiều xuất kích
mắt vẫn sáng trong đêm đuổi
địch
miệng vẫn cười sau mỗi ván ù
mo
và hầm kèo vẫn đầy ắp tiếng
thơ...
“Ngày ấy các cậu cũng hoắng lắm!”, ông Diệu cười rung cả mái đầu bạc
trắng của mình. “Tôi nhớ, đơn vị hành quân vào đến Binh trạm 46, một khu rừng
thuộc tỉnh Quảng Nam thì gặp “Cây đại học”…
Nghe nhắc đến “Cây đại học”, mấy chục ông già đang sôi nổi bỗng chùng
giọng gãi đầu bẽn lẽn. Số là trong một chặng dừng chân, có chiến sĩ bất chợt nhìn
lên thân cổ thụ ven đường, trên vỏ cây sần sùi trăm năm, ai đó đã dùng dao găm
khắc một dòng chữ đầy ngạo nghễ: “Nguyễn Văn T- sinh viên Đại học Kinh tế kế hoạch”.
Không nói không rằng, chàng lính sinh viên của Tiểu đoàn 76 đứng lên rút dao găm
khắc tiếp lên trên dòng chữ “Trần Khắc B - sinh viên Đại học Y khoa Việt Bắc”. Ô,
ông khắc được còn tôi không biết khắc chắc? Thế là từng người, từng người công
kênh nhau lên. Những dòng chữ nối tiếp nhau. “…Sinh viên Đại học Sư phạm Thái
Nguyên”, “…Sinh viên Đại học Cơ điện Bắc Thái”…và còn nhiều tên sinh viên của
nhiều trường đại học nữa trên miền Bắc được tạc vào thân cổ thụ như một biểu tượng
hào hoa trên dải Trường Sơn. Bây giờ ngẫm lại hành động hồn nhiên thời trai trẻ,
ai cũng thấy ngượng ngùng. Nhưng nếu được trở lại thời ấy ắt hẳn mọi người vẫn
sẽ hành động không thể khác.
Ba mươi lăm năm, những người lính trở về đúng nơi mình xuất phát. Họ
đứng lặng ngắm đồi Cây Thị vẫn xanh tươi cây lá bằng một tâm thế suy ngẫm. Một
tiểu đoàn sinh viên gần 500 người ra đi, giờ gặp lại chưa đủ một phần mười. Trong
số người trở về có những người đã mang danh hiệu Anh hùng, hàng chục người trở
thành giáo sư tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, nhà văn, doanh nhân..., đáng tự hào lắm
chứ! Thế nhưng ai cũng cố tránh nói về mình. Già cả rồi, về hưu cả rồi, công
danh sự nghiệp còn ý nghĩa gì đâu. Cái đáng nói là thời trai trẻ hào hoa trong
cuộc trường chinh cùng đất nước. Và cái đáng nhắc, đáng ghi nhớ là những người đã
vĩnh viễn chẳng trở về. Con số đó là bao nhiêu? Câu hỏi này ong ong trong đầu mỗi
người nhưng không ai muốn trả lời cụ thể. Đó là lí do vì sao bữa cơm thân mật mà
Huyện đội Phú Lương dành chiêu đãi các cựu chiến binh đã trầm lắng hơn dự kiến.
Trước mâm cỗ ê hề thịt cá, những người lính sinh viên năm xưa lại lén quay đi
lau mắt. Thời gian khổ đói ăn thiếu mặc tưởng đã lùi vào dĩ vãng xa xăm ngờ đâu
lại trở về trong khung cảnh này. “Nào, chúng ta cùng nâng ly tưởng nhớ những người
không về!”. Sau tiếng cụng ly chộn rộn là cả một quãng lắng lê thê không tiếng động.
“Có ai nhớ thằng Khoái không?”. Mấy chục cặp mắt vừa nghe nhắc đến cái tên ấy bỗng
bất ngờ rấn nước. Và tất cả cùng buông đũa thở dài. Ba mươi mấy năm trước, chàng
lính sinh viên tên Khoái sốt rét ở một khu rừng Hạ Lào. Trời mùa khô nhức nhối.
Giặc vây bốn phía. Cạn lương, cạn thuốc. Anh cứ nằm đó vật vã với từng cơn nóng
lạnh suốt mấy tuần liền thì kiệt sức. Vào cái ngày cuối cùng thê lương ấy, anh chợt
tỉnh táo. Anh nói rằng anh thèm ăn một tô cháo thịt để rồi chết khỏi trở thành
ma đói. Trước đề nghị cháy lòng của anh, đơn vị đã vét những hạt gạo cuối cùng
ra nấu cháo. Một tổ được cử đi săn đã mang về một con nai khá lớn. Nhưng nồi cháo
thịt vừa chín thì cũng là lúc anh tắt thở. Đơn vị đã cáng anh đi ròng rã nửa ngày
mới tìm được một vạt rừng có nhiều cây môn thục. “Khoái ơi, chúng tao đặt mày nằm
chỗ này có rau môn thục để mày ăn thay cơm, khỏi lo đói nữa!”. Đặt anh xuống
huyệt, lấp đất rồi, những người lính sinh viên còn chặt rất nhiều hoa quì dại đắp
lên mộ bạn. Ngôi mộ hoa quì vàng rực như nắng ánh lên giữa rừng chiều mùa khô rợn
lạnh.
Ngày ấy cách đây ba mươi mấy năm rồi…
Đ.T.T
ReplyDeletekhúc ca bi tráng .Tự hào người lính sinh viên
GV