Anh Quì cụt ngón chỏ và ngón giữa
bàn tay trái. Nhưng anh không phải là thương binh. Anh cũng đi bộ đội nhưng trốn
đơn vị lên rừng chặt vầu, bán lấy tiền tiêu riêng mà bị nạn. Anh giải ngũ với
cái tên Quì cụt giữa hồi máy bay Mỹ lần đầu ra ném bom miền Bắc. Đơn vị anh,
người ta nao nức lên đường vào Nam đánh giặc. Không khí cứ nóng hầm hập như nồi
cám lợn sôi trên bếp. Còn anh, nem nép không dám ra khỏi nhà. Mẹ anh Quì là bà
Thắm gù, thở ngắn than dài nhưng cũng theo chân bà con đến chơi ăn trầu uống nước
úy lạo những anh bộ đội về phép thăm nhà để đi Nam.
Anh bộ đội hàng xóm mời bà Thắm gù miếng trầu rồi hỏi:
- Anh Quì lấy vợ chưa hở Bá?
Rồi chả kịp để bà Thắm gù giả nhời. Anh đã thao thao kể, giá mà anh Quì không bị
vầu sập cắp vào tay, đợt này thế nào anh cũng đi Nam với chúng cháu. Anh Quì bắn
giỏi, lại liều mạng lắm nhá, đánh giặc sẽ hăng phải biết. Bà Thắm gù tủi thân
ra sân nhổ cốt trầu rồi đứng mãi chả vào.
Ngày ấy bộ đội đi vào Nam chiến đấu gọi là đi B. Ai đi B cũng là niềm vinh dự
cho cả nhà, cho hàng xóm, hàng xã. Thanh niên làng nhìn những anh bộ đội mặc bộ
quần áo xanh Tô Châu thùng thình nhưng ai cũng rắn giỏi, xởi lởi thăm thú họ
hàng, chia tay tổ đội, chi đoàn mà thấy rạo rực. Ai cũng muốn mình nhớn cho
nhanh để được đi bộ đội, được đi B, để các cô gái làng nhìn với cặp mắt tràn trề
cảm mến. Anh Quì thui thủi trong nhà không dám ra đường. Khuya, anh gánh một
gánh ống lươn đi thả. Gần sáng lại lùi lũi đi thu ống về. Bà Thắm gù đậy hai
cái chậu sành, gánh đi bán. Ai cũng biết lươn anh Quì đặt ống ban đêm. Khối kẻ
dè bỉu. Người đời tệ lắm cơ. Mua lươn thì có can hệ gì với anh không đi B. Chả
ai dám nói lươn của anh đi B ngon hơn lươn của anh không đi B. Ấy thế mà hàng của
bà Thắm gù vẫn ế. Người ta không muốn mua lươn của cái anh đàn ông chì chuộn
không vào Nam đánh giặc. Bà Thắm gù đập hai cái chậu sành giữa chợ rồi về
không. Những con lươn tuồn ra bò ngoăn ngoắn. Thằng rồ quét chợ cười he he nhào
vào túm lươn, tay nó toe toet đầy nhớt.
Anh Quì không đi thả ống lươn nữa. Anh đi kiếm củi, chặt vầu, chặt hóp thả bè.
Từ ấy người làng ít khi gặp anh. Thi thoảng thấy anh đi từ bến sông về, lạ hoắc
tưởng người dưới xuôi lên sơn tràng. Mấy người hàng xóm vẻ am hiểu thì bảo:
- Tay này giang hồ thật đấy. Cả gan buôn bè một mình.
Mà nể thật cho anh Quì. Đi bè kể cả mùa nước cạn cũng chết như chơi. Chả nói đến
mắc cạn, đến vỡ bè. Một thân cô độc trên sóng nước, cảm mạo thương hàn bất thường,
ai hám gì nỗi ấy. Vậy mà anh cứ lầm lũi đêm đi, ngày cắm cầy ven sông mà ngủ.
Buôn bè lãi lắm. Những thứ vứt đi trên rừng, về xuôi cũng ra tiền. Chả thế chỉ
một năm trời anh Quì mua sắm đồ đoàn trong nhà cho bà Thắm gù, xoong nồi, mâm bát
chả thiếu thứ gì. Chiến tranh ở tận đâu đâu, chứ anh Quì thì cứ như cái lá tre
trôi trên song, chả máy bay nào nhòm ngó. Người làng dần cũng quên, chả ai rỗi
hơi mà bàn luận chuyện “anh Quì” nữa.
Đùng một hôm, Quì về làng lúc nhập nhoạng dẫn theo một người đàn bà. Người ấy
chào bà Thắm gù là Bu. Anh Quì bảo với mẹ, nhà con đấy ẹm ạ. Mai con mổ con gà
thắp hương bố con và cũng đón nhà con về. Bà Thắm gù nhìn người đàn bà phốp
pháp cặp mông chạng hang có giọng nói rất ấm. Bụng bảo dạ, con này mắn đẻ.
Người đàn bà tên là Nhời. Chị Nhời
nhà gần ngay gốc gạo làng Xù, nơi Quì hay cặp bè, rồi bán bè luôn ở đó. Lúc đầu
Quì nhờ chị nấu ăn, rồi sau thì ở trọ lại những hôm bè chậm bán. Thông cảm một
nách hai con nhỏ mà chồng chết vì ho lao đã mấy năm, thế là Quì phải lòng chị
Nhời. Nhời hơn Quì vài tuổi nhưng Quì mê mẩn Nhời lắm. Người đâu mà trắng như
ngó cần. Anh chị chỉ gặp nhau vài chuyến bè là Nhời bụng đã lùm lùm. Đời chả biết
thế nào mà lần. Chưa về với nhau thì Quì hăm hở đi hết chuyến này chuyến khác.
Vội vã lên ngược, vội vã đóng bè xuôi. Tháng, Quì đi 3 chuyến. Về Xù hai ngày,
lại lên ngược chặt nứa, chặt tre rừng xuôi sông luôn. Có nhau rồi , đêm nghe
gió rít ngoài sông, bè vẫn neo lại đấy cũng thây kệ . Họ quấn lấy nhau hầm hập.
Chị Nhời cười the thé. Khiếp! Bàn tay cụt này có ngón tay cái rõ khiếp. Quì lười
dần, mỗi lần về Xù là cứ muốn ở tịt lại mà ôm cái thân nhầy nhẫy của Nhời. Nhời
cầm tay Quì đặt lên bụng. Đấy con nó bảo anh phải chịu khó mà chạy chuyến, rồi
còn nuôi con, nuôi em chứ. Nhời mân mê cái bàn tay cụt của Quì khiến Quì cảm động
vô cùng. Sáng hôm sau Quì xách tay nải ra bến Nứa thật sớm.
Thấm thoắt đã hai năm. Nhời đẻ thằng con trai xinh lắm. Bà Thắm gù sướng thẫn
thờ. Nhời đưa con về thăm bà, còn bà thì chả bao giờ dám đi ra khỏi nhà. Hồi
này, Quì toàn đi bè củi. Khắp vệt Bá Giang , Chèm Vẽ ai cũng biết Quì Củi. Nhời
cũng mấy lần đi bè với chồng. Nhời khỏe, ăn nói dễ nghe qua mấy trạm kiểm lâm
ngon như không. Có lần bè nhà Quì bị tóm lại ở trạm Ngọc Tháp. Cái trạm này
khét tiếng nhất dọc sông Hồng. Nhời lên trạm. Nhời đi hai tiếng về thấy Quì hút
thuốc lào thần thượi trên bãi chuối. Nhời gọi, đi thôi ! xong rồi. Quì làu bàu
lâu thế ! Nhời lườm rồi chùi chùi tay vào đít quần. Cái bè củi óc ách trong
đêm. Nhời thương ba chị em ở nhà tự cơm cháo đùm dúm lấy nhau.
Sông nước đêm hôm, nó làm cho thân đàn bà thêm bền quắn lại như cái dây khoai
lang hơ lửa. Tài thật, Nhời cứ nghĩ hay là thức đêm thức hôm nhiều mà sự ham muốn
của mình nó dần dật thế. Nhời ôm Quì vật ra mặt bè. Mặc kệ cái bè củi trôi lùi
lũi. Nhời tự thưởng chiến công vừa xin qua trạm kiểm lâm không tốn cân chè búp
nào. Nằm ngửa nhìn trời đầy những ông sao và tiếng Quì ngáy phơ phơ lẫn trong
tiếng nước sông Hồng.
Bây giờ thì người ta gọi là ông Quì
rồi. Vài năm nay Quì xuống sức. Quì rụng cả tóc. Ngồi bờ sông hút thuốc lào ho
rút cổ. Quì ho đến nỗi mấy thằng câu cá quay lại chửi. Nhời ra sông gọi Quì về.
Thằng con trai bốn tuổi ôm lấy bố kêu bố hôi bố hôi. Đã mấy tháng nay, Quì chịu
không thể lên ngược chặt tre kiếm củi nữa. Mấy đứa con cả chung riêng đều đi học.
Nhời lo bấn xúc xích. Quì biết Nhời lo, thương lắm. Ông bảo vợ, thôi mình ạ,
không đi bè được nữa, ta sắm cái thuyền đi chạy măng và chè. Nhời giãy nảy.
Măng khô chè búp nó bắt ác lắm, dễ đi tù lắm đấy. Ông Quì vừa ho vừa nói, đói đầu
gối phải bò. Mình làm được, làm được.
Vợ chồng Nhời từ ấy đi đò dọc. Cái thuyền nan có cái vòm ở giữa. Lúc ngược đẩy
sào , lúc xuôi bơi chèo. Tháng đi hai chuyến nhẹ hơn đi bè. Kiểm lâm cũng ít
nhòm ngó vì cứ tưởng thuyền chài. Những đêm không mưa gió mát trời, con thuyền
trôi êm như ru. Hai vợ chồng ôm nhau nghe nỉ non trong bờ tiếng ru con, tiếng
trẻ học bài, tiếng vợ chồng nhà nào cãi nhau. Con đò dọc cứ chạy dọc sự đời. Một
chuyến đò dọc như một năm. Một năm đò dọc như một đời. Đò dọc như không có bến,
Nhời bảo với Quì, tôi và ông đi đến lúc nào chết thì thôi. Quì rúc rúc vào nách
hoi hoi mồ hôi của vợ ậm ừ, nói vợ là đồ thối mồm.
Ông Quì ốm rồi. Người làng Xù bảo,
bà Nhời to khỏe quá lại làm cho chồng ho lao. Có người xấu mồm thì bảo máu lắm
cho chết. Nhời bỏ ngoài tai đàm tiếu. Chồng thì ốm mà Nhời càng phây phây mới lạ
chứ. Đi đò dọc nhiều lần Nhời nhuộm lên da mình cái mầu bánh mật và mắt Nhời
như có lửa. Điều này thì ông Quì công nhận. Trong đêm, ngồi đò xuôi song, ông
nhìn mắt vợ như đốm lửa. Ông thấy lo lo sờ sợ. Những lúc như thế ông lại ôm lấy
vợ. Ông Quì không muốn bỏ tay ra. Bỏ ra chỉ sợ đốm lửa mắt kia biến mất.
Ốm quá, ông đành nằm nhà. Vợ ông lên ngược một mình. Chuyến này ông đã chuẩn bị
hai chục kí chè búp, hai chục kí măng khô không thể bỏ mất mối lái đang vào cầu.
Ông nói với Nhời:
- Nhà chịu khó vậy. Để tôi viết cái thư nhờ thằng em họ nó cầm lái cho nhà. Có
nó là yên tâm. Nó họ xa nhưng giọt máu đào hơn áo nước lã.
Nhời đi. Suốt cả tuần nay ông Quì bồn chồn. Ông ra gốc đa làng Xù nhìn ngược
lên trên Chèm. Mặt sông hiu hiu, bãi bồi giữa sông hoa lau bàng bạc cứ đổ
nghiêng về một phía.
***
Thẩm là cháu họ gọi ông Quì là cậu.
Chả biết anh em ra sao hay chỉ là từ những chuyến gom hàng đi bè ngày trước mà
gọi nhau như thế. Thẩm chưa vợ, hai bốn tuổi mà không phải đi bộ đội. Cứ kì
khám tuyển nào là Thẩm đi khai thác tre nứa tít tận Mậu A Trái hút. Thẩm khỏe
và bơi lội rất giỏi. Cũng đã đôi ba lần theo ông Quì đánh bè về xuôi. Trẻ thế
nên đường làm ăn Thẩm xốc vác. Nhưng it khi Thẩm tự thả bè mà chỉ gom hàng bán
cho lái bè. Lãi chắc, lại gom hàng, lãi tiếp. Vốn của Thẩm kha khá. Thẩm chỉ
chơi bời chứ chưa thích cô nào trong làng. Thẩm bảo, lấy vợ là dễ đi bộ đội như
chơi. Chả dại. Thẩm giỏi võ, bắp chân bắp tay cuồn cuộn. Nổi tiếng đấm đá trong
vùng. Khôn như rận.
Đọc thư ông Quì gửi, Thẩm ngẫm ngợi. Đi đò dọc cũng khoái nhưng bị bắt hàng là
mình mang vạ. Chả dại. Thẩm ngẩng lên nhìn người đàn bà ngực nần nẫn mắt long
lanh. Cái áo bà ba căng lằn vết nịt vú cong cớn. Nhời quay sang nhìn Thẩm :
- Thẩm giúp anh Quì, Thẩm giúp tôi, tôi nhờ Thẩm đấy.
Có cái gì đó lạ lắm mà lần đầu tiên thẩm thấy, không giống như khi Thẩm nhìn lũ
thanh niên làng. Chúng nó eo éo nhạt nhạt lại chua chua. Còn người đàn bà này nồng
nồng mằn mặn. Thẩm mân mê lá thư ông Quì viết rồi đứng lên đi ra sân:
- Vâng thì đi.
***
Đò xuôi chập tối. Trăng lên thì tới
bãi giữa Ẻn. Thẩm chống sào nhảy lên bãi vặt một ôm rau cải. Bẻ vài cây mía rồi
bảo Nhời;
- Mợ vào lều mà ăn mía.
Bóng Nhời nhập nhòa . Từ trong cái vòm lá cọ giữa thuyền Nhời thấy Thẩm ngồi
chèo như người múa. Tiếng cậm kịch mái chèo va vào thuyền đều đều. Chiều nay
trước khi thả thuyền, Nhời tắm gội sạch sẽ và làm con gà luộc thắp hương trên
bãi sông. Mặt trời lặn hẳn hai mợ cháu uống hết cút rượu trắng mới lên thuyền.
Trăng lên giãi mặt sông như ngọc. Nhời nhìn mặt nước giống hệt làn ra người khỏa
thân tắm trần. Nhời bảo Thẩm :
- Thẩm xuống mà tắm cho mát rồi đi. Gần sáng đến Trung Hà cắm sào ngủ lại.
Con đò cắm lại ở đuôi bãi giữa. Đêm, bãi giữa là hòn đảo hoang. Là thiên đường
của đa đa, vịt giời. Mùi hoa lau và hoa cải bay trên mặt sông lẫn mùi nước phù
sa nồng nã. Trăng loang loang . Thẩm cởi áo nhẩy ùm xuống sông. Nhời có lạ gì
chuyện tắm truồng ban đêm trên sông. Trăng rõ là lồ lộ mà trăng lại choàng tấm
lụa mỏng khiến thân người kín đáo không lộ liễu. Dưới trăng rõ ràng là tơ hơ mà
không tô hô. Trăng cũng vàng mà nước cũng vàng. Da thịt con người nhầy nhẫy
vàng hòa với nhau một huyễn hoặc râm ran. Có tiếng chim đa đa tìm nhau trên bãi
cỏ hoang. Tiếng nước phì phọp. Hơi rượu phảng phất từ phía Thẩm tắm hay từ cổ
áo mình lúc chập tối. Nhời thấy miên man là rượu là tiếng sóng khua trăng lăn
tăn. Thẩm lên thuyền từ lúc nào Nhời không biết. Thẩm vò cái áo và cởi trần cầm
chèo:
- Đi chứ ạ.
Nhời bảo :
- Thẩm lạnh đấy, áo giặt rồi lấy áo này khoác lên kẻo sương.
Nhời bò lại đuôi chèo khoác cái áo cánh của mình lên cho Thẩm. Mùi mồ hôi đàn
bà thật là gần. Thẩm dừng tay chèo nhìn vào cặp mắt Nhời. Mắt có lửa. Nhời xoa
tay nên ngực trần của anh con trai kém mình chục tuổi. Nước sông lấm tấm trên
người Thẩm mát lịm còn bàn tay người đàn bà nạ dòng nóng như than. Trăng ló ra
rực rỡ. Thẩm nắm tay Nhời. Chị Nhời cứ lặng im. Hai bàn tay đặt lên ngực Thẩm mịn
màng truyền vào cơ thể Thẩm luồng điện rần rần.
Con thuyền bùng bình soàn soạt cỏ lau cọ vào mạn thuyền dưới trăng. Cái vòm lá
cọ chỉ đủ che một khúc giữa, hai cái đầu và bốn cái chân họ thò ra ngoài sương
đêm. Chị Nhời ư ử trong gầm gừ của anh con trai đang thì vừa có hơi rượu. Bãi
giữa vụt mơn mởn đẹp như bồng lai. Suốt đời chị Nhời mới gặp thế này một lần....Con
đò dọc mang theo một đời người chứ đâu phải một chuyến đi. Vài ngày sau nó lại
lên ngược rồi lại bùng bình trôi xuôi. Ông Quì ốm lắm. Nhời biết mà vẫn phải
lên ngược vì hàng đang trúng quả. Chợ búa, rau cỏ đủ cho mấy bố con vài ngày là
Nhời lại đi. Ông Quì nhìn Thẩm và Nhời vác chèo ra sông mà nước mắt ngần ngận.
Nhời thấy mình trẻ như gái đôi mươi. Chưa bao giờ chị Nhời ăn khỏe như hồi này.
Con đò lần nào cũng cắm lại bãi Ẻn. Và đêm nào dù mưa hay rười rười ánh trăng
Nhời cũng thấy mình gặp bồng lai. Nhời biết mình có mang sau lần đi đò dọc đầu
tiên một tháng.
Ông Quì để vợ đi đò dọc chừng dăm tháng thì bệnh ông nặng lắm. Khổ thân ông,
nhìn chị Nhời bụng phườn phưỡn ra vào chăm sóc ông mà ông đau đớn. Ông Quì lại
ra đi giống hệt như anh chồng đầu của Nhời. Ông Quì chết ở quê vợ. Bốn đứa con
một mình chị Nhời gồng lên lo toan. Từ ấy chị chả đi đò nữa. Quê ông Quì cũng
xa lắc lơ với chị. Chị chạy chợ hoa quả ra Bắc Qua nuôi con. Chị cũng chả trở lại
gặp đứa cháu họ mà nhiều lúc chị cho là đồ mất nết nữa. Thời gian trôi như nước
qua cầu Thăng Long gần làng chị. Chuyện đi đò bây giờ xưa như cổ tích. Người ta
sang sông bằng cầu dây văng. Người ta lên ngược về xuôi bằng xe giường nằm cao
tốc. Ở trên làng người ta cũng quên chuyện anh Quì củi từ tám hoánh nào rồi. Bà
Nhời nay cũng vào tuổi bẩy mươi.
***
Một buổi trưa. Ông Thẩm cởi trần ngồi
xem Ti Vi. Có cái xe máy rồ ga vào tận sân. Ông nhìn ra. Quái lạ, thằng này là
thằng nào mà nghênh ngáo nhỉ. Mặt nó chưa nhìn thấy bao giờ nhưng nom quen
quen. Người đàn ông ngó nghiêng căn nhà xây kiểu biệt thự bên sông Hồng của ông
Thẩm. Rồi lom lom nhìn cái xe ô tô Artis ông Thẩm mới mua, được che đậy cẩn thận.
Người đàn ông bước vào nhà rất tự nhiên. Anh ta cất giọng:
- Chào ông Thẩm.
- Anh là...là con nhà ai ...ở đâu ?
Anh ta ngồi xuống ghế.
- Ông phải biết tôi chứ? Ông cố tình không biết à?
- Không, rõ là tôi không biết anh là con nhà ai.
- Vậy tôi tự giới thiệu nhá! Tôi vừa ra trại trên Hồng Ca về.
Ông Thẩm xua tay:
- Không không. Tôi rửa tay gác kiếm lâu rồi không liên quan đến ai cả. Anh nhầm
nhầm đấy. Người đàn ông cười ha hả
- Ông sợ rồi. Tôi không đến để rủ ông quay lại giang hồ. Những ngày trên trại
tôi tìm hiểu ông rất kĩ qua bạn tù. Ông cũng đáng được tôi gọi bằng bố đấy. Bố
Thẩm ạ. Người đẻ ra tôi là bà Nhời ông ạ. Nhờ giời bà vẫn khỏe và chỉ đường cho
tôi lên đây gặp bố. Thấy cơ ngơi bố mình thế này tôi mừng, tuy chưa biết sẽ xin
bố cái gì. Thôi tôi về Hà nội đây, dịp khác tôi lên với bố.
Anh ta vào và ra cũng nhanh như nhau. May mà con cháu ông Thẩm hôm nay đi ăn cưới
trên thành phố cả. Không ai biết thằng con hoang lạ hoắc hơ sồng sộc đến nhà.
Mồ hôi ông Thẩm đầm đìa. Con đò dọc xuôi đêm lại hiện về lúc đang trưa. Chả có
bến neo đậu an lành cho phận đò dọc. Nó là đời nước, nó chảy miên man . Những
phận đời đò dọc cứ gắn với nhau, gắn bó bền bỉ đau đớn của những kẻ cùng đò. Chỉ
có điều nó hiện ra lúc này hay lúc khác mà thôi.
Hà Nội 3/10/2015
No comments:
Post a Comment