Đêm thật đen và lặng. Ga lưa thưa người. Sau chiến tranh chỉ thấy người
ta đổ lên ngược mua sắn khoai với những bao tải và sọt tre, những anh bộ
đội từ trong Nam trở về bụi đất đỏ lầm, có con búp bê mắt nhắm mắt mở
thò bàn chân hồng hồng như nũm khoai sọ non trên nắp ba lô.
Lân vác
ba lô lách lên tàu và chịu để cho người ta chen mình. Ba lô không có búp
bê chỉ có hai bộ quân phục cũ gói vài cuốn sách, có cái mũ cối là mới
được phát trước ngày ra Bắc, anh ôm vào bụng. Mãi rồi cũng vào được
trong toa lờ mờ 2 ngọn đèn bão lúc lắc lổn nhổn người đứng, người ngồi.
Năm năm đã xa miền Bắc, xa những chuyến chen chúc cách quãng leo tàu hỏa
lên trường học, vậy mà bây giờ con tàu vẫn thế, hôi hám và khàn khàn còi
vọng vào đêm.
Có một cô gái tóc bím, hai bên vai cựa quậy mãi mới đứng dậy khỏi ghế.
- Anh bộ đội ngồi xuống đây. Cô nép cong người sang một bên. Trong bóng
đêm lờ mờ, Lân thấy cô gái dịu dàng đến lạ, mùi thơm cũng rất lạ, anh
chưa thấy bao giờ. Anh ngượng nghịu
- Ấy chết cô cứ ngồi, bộ đội ai lại bắt đồng bào nhường chỗ.
Có tiếng cười khúc khích của những người ngồi bên. Lân không hiểu sao họ lại cười. Cô gái lại ngồi xuống chỗ của mình.
- Thế thì anh đưa ba lô, em ôm cho anh đỡ mỏi. Họ cười anh gọi em là đồng bào đấy.
Lân cũng cười, gỡ cái ba lô đưa nhờ cô đặt lên đùi còn mình thì lùi lại
tay vịn lên thành ghế nhà tàu. Con tàu lắc lư. Chả thể nói con tàu
trườn vào đêm hay là đêm trườn vào tàu. Tất cả lơ mơ như nhung đen, mùi
khen khét của than đốt lò, mùi quang gánh, mùi tóc mùi mồ hôi nươm vào
khoảng hẹp mập mờ nhưng Lân vẫn nhận rõ có mùi riêng của cô tóc bím.
- Ba lô nhẹ tênh thế này sao? Anh cũng ở chiến trường ra đấy chứ?
- Vâng tôi vừa từ Tây Nguyên về.
Tàu đến ga S. Tiếng khàn đục ngái ngủ của người đàn bà cầm cái loa sắt Tây đứng lùn tè giữa sân ga nhắc nhở hành khách xuống tàu. Tiếng loa ở
sân ga mệt nhọc rồi chìm tũm vào đêm. Lân nghiêng người cố ngó ra cửa
sổ, hàng cây bạch đàn nay đã cao lớn vụt qua, anh cố tìm một nét quen
vô vọng. Hơi lạnh ùa vào toa tàu. Lân kéo cái khăn dù thở dài, nhớ một
đêm mùa đông năm năm trước anh đã đi chiến đấu từ cái ga tàu hỏa này.
Cô gái ngước nhìn anh trong bóng tối lờ mờ. Những thân người lắc lư
trong tiếng rì rầm của người, tiếng ken két của bánh xe tàu hỏa. Họ xuống
ga vào lúc gần sáng. Sương trắng trên mặt đường đá lổn nhổn lối ra
đường quốc lộ. Cô gái hỏi:
- Anh về đâu?
- Tôi về trường đại học gần đây.
- À… thế thì …ta lại cùng đường. Cô xuýt xoa kéo cổ áo. Lân đưa cho cô gái cái khăn dù :
- Này cô choàng cái khăn này cho ấm, đừng chê lính hôi nó theo tôi nhiều đêm trinh sát bám địch đấy.
Nếu không có câu nói này chắc chả đời nào cô gái chịu nhận tấm vải dù
choàng lên ngực mình. Cô kéo cái khăn dù, cảm thấy có mùi khét thuốc lá
và cũng như Lân cô thấy một mùi rất khác lạ với mình. Họ đi lẫn cùng
nhiều người về cái trường Đại học trên một triền đồi. Lân không hỏi cô ở
lớp nào hay là nhân viên phục vụ hoặc giả là con một gia đình nào trong
trường. Cứ nghe líu ríu cô kể về trường đã có sân đá bóng ra gần quốc
lộ, nào là trường này mấy năm nay thi vào khó lắm đấy. Nào là đói ơi là
đói. Câu chuyện ríu ro như hai người đã thân quen nhau lắm còn Lân anh
đang hít thở cái hương cỏ khô và hăng hắc lá bạch đàn mà nhiều năm nay
anh xa nó. Cứ thế mải mê đến nỗi lúc chia tay anh vẫn đang mơ màng nhìn
hút về phía lớp mình sơ tán ngày xưa sau dẫy đồi lờ mờ trong sáng sớm.
Lân đi về phía cổng trường, sà vào mấy quán hàng dọn sớm mua hai khúc
sắn luộc rồi ra một gốc cây vừa ăn vừa hút thuốc. Sương lạnh, anh chợt
nhớ cái khăn dù. Thì ra lúc chia tay cả anh và cô gái đều quên. Lân mỉm
cười, nghĩ đến khuôn mặt cô gái anh cũng chưa nom rõ rồi lại nhớ cái vải
dù từng nắm cơm mang lên chốt, từng làm chăn đắp lên mặt những lúc ngủ
rừng. Anh tự nghĩ an ủi cái khăn về với chủ mới chắc là ý trời.
***
Lân về học năm thứ 3. Anh không kịp nghỉ ngày nào mà lên lớp luôn. Chả
bù mấy đứa về năm thứ hai, khối môn đã thi rồi nên được miễn tha hồ chơi
dong nhan. Trường bây giờ rất nhiều bóng áo xanh bộ đội. Những buổi lên
lớp nhìn những khuôn mặt sốt rét lẫn trong bao nhiêu khuôn mặt rạng
ngời của các bạn trẻ cứ như một nồi xôi đỗ.
Vừa ra khỏi chiến
trường đã ôm ngay cái bài tập lớn về Nguyên Lí Máy. Đêm đêm chong đèn
ngồi rút thước Logarits và cắm đầu vào vẽ. Một lần có cái bóng đèn 100 W
chập nổ tưởng như lựu đạn địch ném vào, Lân chúi ngay đầu vào gầm bàn.
Các bạn cùng phòng cười ré lên. Lân mang tên” Lân bóng đèn” từ ấy. Những
người bạn học đâu có hiểu cái phản xạ của người lính chiến vừa ra khỏi
chiến trường. Họ cười. Kệ họ. Lân nghĩ thế.
Vài tuần trôi qua, một
chiều thấy một người con gái đi từ lớp năm thứ nhất qua cửa kí túc xá.
Cô gái tóc bím? Lân ngờ ngợ nhưng không dám hỏi vì thấy cô cầm tập giáo
trình lên lớp. Cô gái chợt nhìn thấy Lân, dường như cô nhận ra anh nhưng
rồi lại bước đi. Cái bím tóc buông xõa bờ vai tròn lẳn trong tấm áo len
của ngoại. Lân quay ra hỏi bạn cùng lớp. Họ bảo cô giáo dậy toán năm
thứ nhất đấy. Học Tổng Hợp Khác- Cốp mới về. Thì ra Lân đã quen một cô
giáo mà lại là cô giáo học ở Tây về. Anh đi vào phòng, xốn xang quá. Bản
vẽ Nguyên Lí Máy nhập nhòe. Lân vỗ vỗ mấy cái vào mặt rồi cúi xuống tô
những đường chì nhanh nhánh.
Nhoáng cái đã sang năm mới. Các
chàng bộ đội nay đã hòa nhập với không khí ồn ào như chợ vỡ ở cái khu kí
túc xá mấy ngàn sinh viên này. Họ vẫn mặc quân phục lên lớp có lẽ do nó
bền và lại phiếu vải chưa làm xong cho lính xuất ngũ. Hầu như số bộ đội
về học đều đến tuổi lấy vợ mà chưa có vợ. Vài tháng ăn cơm trường đại
học nước da bớt đen, môi bớt tái nên cái vẻ phong sương pha lẫn học trò
trông anh nào cũng dễ gần. “Lân bóng đèn” được bầu làm lớp phó học tập.
Mang tác phong quân đội về với sinh viên cũng không phải là dễ. Nhưng
các chú học trò thấy đàn anh chăm chỉ học tập quá nên cũng bị cuốn theo.
Lớp nào đông bộ đội là phong trào lên hẳn. Mồng tám tháng ba năm ấy, ở
lớp Lân chỉ có hai cô gái vì thế thủ tục thăm hỏi chỉ nhoáng cái là
xong. Hàng trăm chàng trai tận tình thăm hỏi một cô gái cứ xầm xập từ
chiều đến tối. Lân nhớ tới cô giáo tóc bím. Cô giáo mà Lân chưa có dịp
thăm hỏi kể từ mấy tháng trước.
Cô giáo Lương học ở Khác Cốp về
mới lên lớp năm đầu tiên. Là học sinh Hà Nội đi du học năm 1969. Năm ấy
cô Lương đi bằng tàu thủy từ Hải Phòng sang Liên Xô. Số cô rủi hóa may.
Các bạn đi đợt đầu qua đất Trung Quốc, còn cô và các bạn đi sau không
được đi theo con đường ấy nữa mà lại đi tàu thủy. Nửa tháng trời trên
biển thật là kì thú. Đời người chắc chỉ một lần như vậy. 5 năm học toán ở
một trường đại học danh tiếng, cô về nước giữa lúc cuộc chiến chống Mỹ
vào hồi cuối cùng. Mang va li đến nhận việc ở một trường đại học miền
núi, Lương buồn rười rượi. Chiều hôm đầu tiên đến trường cô nhìn rừng cây
bạch đàn trên một vùng cỏ úa, nhìn sinh viên cầm bát đi ăn cơm ở một
nhà ăn lợp lá có những cái chảo nước sôi lúc nào cũng ám khói. Cô muốn
bỏ về Hà Nội đi tìm một nhiệm sở khác. Từ hôm gặp chàng sinh viên đi
lính về, Lương lại bỗng nhớ về một người bạn mà cô chưa hề biết mặt.
Hồi ấy có phong trào nữ sinh các trường đại học viết thư gửi ra chiến
trường động viên bộ đội. Các lá thư từ hậu phương của các cô gái gửi ra
tiền tuyến đều được đóng vào những bao gạo chuyển vào chiến trường. Bộ
đội đi lấy gạo về tập hợp những lá thư và mỗi chiến sĩ được cấp trên
phát cho một lá. Ai chưa nhận thì đợi đợt sau, kiểu như cơm không ăn gạo
còn đó. Bao nhiêu tâm sự của các cô gái được người lính mang theo giữ
gìn như tâm tình của người thân của mình. Họ cũng gửi những dòng chữ vội
vàng đầy khói súng về cho các bạn gái mà chưa hề biết mặt. Lương có một
lá thư của một người lính tên Chiến quê ở Mê Linh, anh kể anh vừa ở
chiến dịch đường chín Nam Lào. Những Lá thư của anh thật hóm hỉnh và rất
gọn gàng khúc triết.Lương biết anh cũng là sinh viên năm thứ 2, đi bộ
đội chỉ có điều anh không bao giờ nói là anh học ở trường nào. Anh cứ
bảo rồi ngày em về nước em sẽ biết về anh. Khi đơn vị anh rút ra Hà Tĩnh
kết thúc chiến dịch đường Chín Nam Lào, thư anh kể anh sẽ còn đi vào sâu
hơn nữa vì chiến trường đang vào hồi quyết liệt. Có một lá thư Lương
nhận được trong ấy có một cánh hoa sim ép khô từ Kì Anh Hà Tĩnh …”Anh
viết … em thân mến, có một hôm bọn anh lấy gạo trên sông Xebanghieng.
Những bao gạo trôi trên sông dạt vào bờ, đơn vị nào vớt được bao nào thì
mang về bao ấy. Trời run rủi cho tiểu đội anh vớt bao gạo sọc xanh trong
đó có 5 lá thư. Anh may mắn có thư em. Em là học sinh Hà Nội, anh ở nhà
quê Vĩnh Phúc. Chuyện cứ như tiểu thuyết em nhỉ, mong rồi có ngày ta gặp
nhau lúc đất nước giải phóng và em về….Vài ngày nữa anh sẽ lại đi sâu
vào chiến trường, gửi em bông hoa rừng nơi anh đóng quân trước ngày đi
chiến đấu, về nơi xứ tuyết…”
Chuyện tình cảm mỗi con người cứ như từ
trên trời rơi xuống. Muốn cũng chả được, rẫy ra thì nó cứ vận vào thật
chặt. Lính chiến trường bỗng nhiên có chỗ bấu víu thiêng liêng. Cứ lúc
nào mệt mỏi, lúc nào khó khăn lại mang lá thư của một cô gái nào đó ra
đọc là thấy mình khỏe hơn lên. Lời động viên của người khác giới nó mạnh
mẽ hơn nhiều lần lời hô hào chính trị tư tưởng. Lính ở trận tiền chỉ
cần có thế, đơn giản vô cùng, đơn giản đến mức trong sáng cực đoan.
( còn tiếp)
No comments:
Post a Comment