Tuesday, March 2, 2021

Tết năm 1975 ở Tây Nguyên

Tết năm 1975 ở Tây Nguyên
Gần về tết, đêm Tây Nguyên cũng lạnh. Kỉ luật khói lửa và dấu vết tiếng động rất chặt chẽ. Lính không dám đốt lửa ca cóng và bắn thú rừng, mặc dù thú rừng ở đây nhiều vô kể. Một đêm thấy lửa lập lòe trong khu đóng quân . Báo động . Lính lao ra vây chặt mấy bó đuốc và ba người đàn ông đóng khố. Họ có những cái giỏ trong đó có vài con nhái…họ ra hiệu là đi soi đuốc bắt con nhái để ăn. Đại trưởng Kế người Cẩm Khê lệnh, nhốt tất cả 3 cái khố xuống hầm và canh gác cẩn thận. Chừng 1 tiếng đồng hồ lính gác thấy họ kêu la ghê quá bèn soi đèn xuống hầm, thì ra 3 người dân tộc bị kiến đốt. Trong hầm có một ổ kiến đít đỏ. Lính ta cho họ một bó đuốc để họ chàm lửa diệt kiến. Sáng hôm sau đại đội cho người dẫn lên Tiểu đoàn. Chả biết tiểu đoàn nuôi họ đến bao giờ thì thả.
Khu đóng quân đại đội ở hai bên một con suối. Bếp đại đội gần suối còn thì các trung đội ở trên đồi cao. Lâu lắm chúng tôi mới có một kiềng mà nối các hầm bằng giao thông hào. Vào dịp cuối năm bỗng nhiên nhiều lính bị cúm giống như dịch cúm. Đại đội cho đào một cái nhà hầm rộng 26 mét vuông lợp lồ ô cho chục thằng bị cúm nằm chung ở đó để tránh lây bệnh ra anh em. Có đêm, ở lán cúm có thằng mê sảng đến nỗi hét rõ là to. Đứng lại! chạy tao bắn chết. Cả đại đội bừng tỉnh, vớ vội súng ống lao ra khỏi hầm. Đêm yên tĩnh. Tiếng rên hư hư ở lán cúm não nùng.
Chỉ còn vài hôm nữa là đến 11/2/1975. Trời khô và sáng sớm có sương nhẹ. Tiết trời Tây Nguyên đủ cả 4 mùa. Sáng sớm mùa xuân, trưa mùa hè, chiều mùa thu còn tối mùa đông. KHu rừng chúng tôi trú quân rừng che kín bưng không để lọt nắng . Có những hôm trên cây cơ nia có những dây gắm đầy quả và cả đàn Dọc kéo nhau về hải quả mà Không thằng nào dám bắn. Con suối gần bếp đại đội sáng ra có những vết chân lợn rừng to như cái đít bát ăn cơm. Những đàn sóc nhảy tưng tưng quanh chỗ lính ta đãi gạo vo đỗ nhặt những hạt cơm mà anh nuôi hắt nước rửa nồi ra bờ suối.
Năm ấy quà tết đến sớm. Tôi chắc chỉ khoảng tết ông Công là có rồi. Mỗi người được 2 cái kẹo Nu ga, 4 điếu Tam Thanh. Mỗi trung đội được một gói thuốc lào An Thái 25 gam. Tôi nhớ thế vì có việc liên quan đến tôi. Số là tôi được giao nhiệm vụ giữ gói thuốc lào cho cả trung đội. Tôi hỏi B trưởng Luật, sao không giao cho B phó Đàm giữ mà giao cho tôi? Luật nói, mày là cảm tình sắp kết nạp đảng nên giao cho mày là đúng nhất. Tôi im lặng. Gói thuốc lào nóng ấm trong túi khiến tôi phải cắt một ống nứa đút nó vào đấy rồi bí mật đào một cái hố chôn nó không cho ai biết. Những ngày trước tết mỗi tiểu đội làm một cái điếu cày rồi chấm điểm. Đấy là hình thức đấu thầu điếu cày dùng cho đêm 30. Điếu cày của A tôi do thằng Nhớn và thằng Lượng làm được trúng thầu. Tôi khoái lắm.
Hôm ba mươi tết, tôi phân công từng người trong tiểu đội mỗi người một việc, đứa lo lấy nước cho đầy ăng gô, dọn dẹp hầm của tiểu đội sạch sẽ. Riêng tôi đi tìm hoa chè rừng và A phó Vũ Văn Nhớn đi bắt cua đá. Suốt buổi chiều tôi trèo lên những cây chè rừng hái được hơn chục bông hoa, thứ hoa chè hoang đẹp mê mẩn. Nó giống như hoa bạch trà bây giờ tuy nhỏ hơn và thơm lắm. Bữa chiều 30 tiểu đội có canh cua lễnh loãng mà cứ như được ăn yến tiệc.
Chập tối thằng Hạnh người Thanh Ba sang hầm tôi. Nó đưa cho tôi một quyển sổ tay mang từ miền Bắc vào và nói, em cho anh quyển sổ này làm quà tết. Tôi nhìn thằng em cùng quê mà cảm động. Nó gày nhẳng nhơ, da dẻ mốc mốc . Nó bảo nó ở xã Quảng Nạp nhiều ruộng lầy. Nó bẽn lẽn, em thấy các anh bảo anh hay làm thơ, em cho anh để anh viết thơ vào đấy. Cuốn sổ của Hạnh tôi viết cho đến cuối tháng tư năm 1975 và nhiều bài thơ đến bây giờ vẫn lưu lại.
Tối hôm Ba mươi tết, đại đội tập trung hái hoa dân chủ ở cửa nhà c bộ. Thằng Hồng liên lạc suốt cả ngày lo buộc các ngọn cây lồ ô kéo cong xuống che kín khoảng đất trống để về đêm ánh sáng không lọt ra ngoài. Chưa bao giờ quân số đông như tết ấy. Đại đội tôi đủ 90 tay súng. Trong liên hoan đêm ấy còn có một tổ đài c18 đi trực tiếp với c7 chủ công cũng tham gia. Chúng tôi hát chúng tôi ngâm thơ và kể chuyện. Tôi không còn nhớ nhiều những bài thơ mà lính đã đọc nhưng tôi nhớ là lính ta đã khóc trong đêm Ba mươi. Tôi nhớ là các cán bộ đại đội cũng bị bỏ bom hát và múa. Đêm ấy mùi thuốc lá thơm lan ra rừng. Mùi rừng miền Nam và mùi thuốc lá miền Bắc quện vào nhau thật khó tả trong tôi. Có lẽ chỉ một đêm như thế để nhớ rằng giữa lằn ranh sống nay chết mai con người chúng tôi bỗng phơi bày ra rõ rệt nhất. Chúng tôi biết rằng chỉ vài hôm nũa thôi chiến dịch sẽ nổ ra và chúng tôi biết có còn trở về với quê mẹ hay không?
Cuộc liên hoan chỉ chừng đến 9 giờ tối là kết thúc. Các trung đội về hầm của mình. Lúc này tôi mới moi ống nứa có gói thuốc lào An thái 25 gam lên giao cho B trưởng Luật. Cái điếu cày bắt đầu từ B trưởng quay vòng hết cả Trung đội. Trong mù mịt khói thuốc lào những câu chuyện tỉ tê rì rầm của lính cho đến lúc rộ lên tiếng súng từ phía đồn Buôn Rừng ngoài đường 14 . Lúc ấy đồng hồ của Chính trị viên phó tên Thắng người Quảng Nam mới có 11 giờ đêm. Chính trị viên phó giải thích, người Nam đón giao thừa sớm hơn miền Bắc 1 tiếng đồng hồ. Đúng lúc ấy có tiếng súng AK nổ trên ngon suối. Cả đại đội báo động. Tiếng súng giao thừa của quân phía bên kia cũng đã im, rừng trở lại im lìm, Những câu chuyện rì rầm của lính đã lặng đi. Tôi ngồi một mình trên một cây gỗ bắc ngang qua khe cạn. Tôi nhớ lúc này mẹ tôi đã dáo xong nồi bánh tẻ rồi đi ngủ.
Sáng mồng một tết. Hôm ấy là ngày 11 tháng 2 năm 1975. Thằng Hồng liên lạc đi chặt lồ ô làm bàn ăn cho C bộ chạy về kêu to, có con lợn rừng to lắm nó chết ở dưới suối. Cán bộ chạy ra rồi quay về cho liên lạc gọi các B trưởng lên. Lát sau B trưởng Luật về gọi 3 thằng A trưởng bọn tôi bảo, mỗi A cử 1 thằng đi mổ lợn. Con lợn hơn một tạ chúng mày ạ. Tôi gọi A phó Nhớn, giao cho nó hai ăng gô cầm đi dặn cố gắng nhá, nhá. Nhớn cười cười đi về phía bếp.
Tôi lội qua suối leo lên dốc sang B3 và A10 chỗ hầm Khuất Duy Hoan. Đã vài năm nay cứ ngày 1 tết là tôi và Hoan cũng mò đến hầm nhau chúc tết. Ở đại đội này chỉ có tôi và Hoan như thế. Cũng chả biết là tại sao nhưng 2 thằng từ lúc vào bộ đội cùng nhau đã vậy. Thằng Hoan gửi cho tôi mang về 1 điếu thuốc cho thằng Độ. Ngày huấn luyện ngoài Bắc Thái chúng nó cùng một tổ ba người.
Chiều mồng 1 tết có hai ăng gô thịt lợn “tăng gia “ của thằng A phó Nhớn mang về, tiểu đội tôi dôi ra 3 kí thịt, Tôi nhắn thằng Cao Phương Giang cùng trường Cấp 3A Yên Bái với tôi xuống cho nó ăn bữa no thí cố. Nó cứ gặng hỏi thịt ở đâu? Tôi bảo cứ chén thôi không cần biết.
Đã gần 46 năm trôi qua, tết nay không còn như xưa nữa nhưng bầu trời thì vẫn thế. Những đứa tôi kể trong chuyện này đứa còn sống cũng vào tuổi 70. Đứa chết thì vẫn ngoài 20 tuổi. Thằng Vy Quang Trung đi bắt tê tê là Hiệu Phó trường Cao Đẳng Nông nghiệp tỉnh về hưu. Thằng Độ Hi sinh ở Phú Yên hôm 1/4/75 cùng B phó Đàm. Thằng Lượng làm điếu cày của tiểu đội tôi cũng hi sinh ở chân Đèo Cả. Thằng Hạnh tặng quà tết cho tôi thì chết ở trận Củng Sơn. Thằng Hồng liên lạc sau giải phóng đi học Lục quân Sơn Tây rồi ở lại làm giáo viên điều lệnh nay là đại tá nghỉ hưu ở trên đó. Khuất Duy Hoan thì lặn lội cả đời chiến đấu hết miền Nam sang Căm pốt, lúc nghỉ hưu là Phó tư lệnh Qđ3. B trưởng Luật sau giải phóng xin phục viên về làm nông dân giúp vợ vì gia cảnh neo đơn. Nghe nói đã mất vì bệnh tật trên Thái Nguyên. Chỉ có cái chết của đại đội trưởng Kế người Cẩm Khê là ai oán. Chả hiểu Kế bị bệnh trầm cảm gì đó mà đang làm công tác ở tỉnh lại treo cổ mà chết. Cái chết của một đại đội trưởng can trường thật lãng nhách. Đời không biết đâu mà lần.
Năm nay sau nhiều năm mùng một tết lại là ngày 11/2 trùng hợp với năm 1975 khiến tôi đã nhớ lại càng thêm nhớ tết năm ấy.
Tết thì cứ vô tư đến. Thời gian dửng dưng trôi đi. Chỉ có tuổi già của những thằng lính trận thì chả thằng nào vô tình vì tết nào cũng là máu đổ và sót sa thương nhớ nhau. Nhưng cuộc đời chả có cái gì vô tư cả, chả có cái gì là không có giá kể cả là chút ánh sáng ngày mồng một, bóng tối của đêm Ba mươi, hết thảy đều thấm đẫm mồ hôi và nước mắt của con người, nhất là người lính.
sáng 7/2/21

No comments:

Post a Comment