Tuesday, September 3, 2019

HÀNH TRÌNH THÁNG TƯ


Đêm đầu tiên chúng tôi dừng chân ở Quảng Trị. Nhà khách Tỉnh đội vừa nguội nắng, anh bác sĩ già nhất đoàn bước xuống xe quay nhìn về phá thành cổ, phía ấy ráng chiều vẫn hồng hồng. Anh nói khẽ, thế mà đã gần nửa thế kỉ…chúng tôi nhìn anh không ai nói thêm gì. Tôi biết anh đang nhớ một thời làm bác sĩ quân y nơi tuyến lửa. Tất cả chúng tôi đây gần hai mươi bác sĩ đã về hưu ai cũng có một cuộc đời làm lính, một cuộc đời gắn bó với thương bệnh binh và núi rừng chiến trận. Bây giờ là giữa tháng tư. Chúng tôi đang đi tìm lại tuổi trẻ của đời mình. Nơi chúng tôi đến là chiến trường Tây Nguyên ngày xưa , nơi mà rất nhiều bác sĩ chúng tôi đây đã sống thời trẻ trai và trưởng thành. Chúng tôi đi về vùng đất đã từng lửa khói đạ bom, chúng tôi về đây tìm lại chính mình, một hành trình tháng tư 1975.
Để có cuộc hành quân toàn thày thuốc áo xanh này chúng tôi phải chuẩn bị tới nửa năm. Từ nguyện vọng tâm tưởng của những người chiến sĩ quân y khóa 67 chúng tôi đến hiên thực phải mất 6 tháng trời. Chúng tôi đã từng gặp xin ý kiến thủ trưởng cũ của chúng tôi là trung tướng Khuất Duy Tiến . Chúng tôi từng trình bày và được BTL Quân đoàn 3 chấp nhận kế hoạch. Chúng tôi từng bàn đi bàn lại với BTL Sư đoàn 320 về thứ tự triển khai như một trận đánh lớn. Bạn của chúng tôi thời trai trẻ chiến trận là Đại Tá Khuất Duy Hoan đã gíup chúng tôi triển khai phương án ban đầu và theo suốt quá trình “ thực hành tác chiến.” 
Đêm ở Quảng Trị khó ngủ quá. Chúng tôi thức và hát với nhau khe khẽ những bài hát năm xưa chúng tôi từng hát lúc lên đường vào chiến trường chiến đấu. Có những bài hát lâu lắm bây giờ mới hát. “ Miền nam kêu gọi ta vượt Trường sơn bay vọng ra ôi tiếng quê hương như thúc dục lòng chúng ta…” . Nhóm các bác sĩ nữ thì hát “ ..trăng đã về khuya sao buông lấp lánh..”. Bỗng có một giọng nữ Quảng Trị cất lên “ Hai mươi sáu năm rồi… Quảng Trị ơi , đẹp lắm hôm nay đẹp lắm , cờ đỏ tung trời . Mẹ ơi đồn giặc đã tan bốt Đông Hà- La Vang - Quảng Trị không còn bóng giặc chúng con đã về đây….” Chúng tôi quay lại, thì ra bác sĩ Nguyễn Bich Hà đang hát. Nước mắt chị ngân ngẫn. Tất cả im lặng để nghe chị hát. Hà hát mà như khóc , chị đang gọi về nơi mẹ chị sinh ra chị , nơi ấy Triệu Phong một vùng đất anh hùng.

LỚp chúng tôi khóa 67 quân y ngày ấy nay tuổi xêm xêm bảy mươi. Chúng tôi và những người bạn chung một tâm nguyện làm một việc gì đó tri ân đồng bào vùng kháng chiến xưa kia thì gom lại với nhau dưới mái nhà chung “Quân Y và những người” bạn. Sáng nay xe rời Đông Hà lên đường . Qua cầu Dak rông qua A Sầu A Lưới để vào Tây Nguyên. Chúng tôi nhớ một năm trước tại nơi này chúng tôi đã 2 ngày đêm ở cùng với đồng bào Vân Kiều . Khám bệnh cho họ, phát thuốc cho những ông già bà già và cả những thiếu nữ mắt trong như nước suối. Mà sao chúng tôi cứ quặn thắt trong lòng. Trước mắt chúng tôi là những thiếu nữ Vân Kiều gùi đạn gùi gạo ra chiến trường , là những bản làng nhường củ sắn , mớ rau cho bộ đội đánh Mĩ. Ngồi khám bệnh cho họ thấy đồng bào và mình khác nhau quá. Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỉ mà đồng bào cách mạng vẫn khổ thế này ư? 
Chúng tôi thấy có lỗi . Chúng tôi tự nhủ lòng phải đi nữa , đi đến khi nào không đi được nữa thì mới thôi. Đi để tri ân. Đi để trả nơ đồng bào. Cả đòan chúng tôi không một người nào thích dùng chữ từ thiện. BỞi tất cả chúng tôi là người lính đã được đồng bào cưu mang chia sẻ hiểm nguy bằng máu của đồng bào. Chúng tôi, bằng những chuyến đi như thế này là làm trong sạch lại đời mình. Chúng tôi hiểu rằng trả ơn nhân dân không bao giờ trả nổi. Không có thể chế nào trả ơn được cuộc cách mạng quần chúng đã xây nên thể chế. Chúng tôi đi để tri ân đồng bào của tôi. Làm nghề Y chúng tôi hiểu, biết tri ân sẽ làm lòng mình trong sáng lên.
Chiều ngày thứ 2 chúng tôi đến Tây Nguyên. Từ lúc qua đèo Lò so lòng ai cũng bâng khuâng. Sắp qua Đắc Pet, qua Pờ lây Cần qua ngã ba ra cửa khẩu Bờ Y mà khi xưa chúng tôi gọi là Ngã ba Đông Dương. Nắng bỗng xanh lên vì nương rẫy lên xanh. Xe đưa chúng tôi qua Dak To Tân Cảnh lúc chiều buông . Một bác sĩ trong đoàn kêu lên, Các bạn ơi nhìn bên tay phải kìa, nhìn đồi Charlie và Den Ta kìa. Cả xe quay nhìn dãy núi có những mỏm đầu bạc trắng. Trong tôi hiện về mùa khô 1972 ác liệt. Chúng tôi đã phá toang phòng tuyến tây sông Pô cô để quân ta đánh vào Kon Tum làm nên chiến thắng cao nguyên mùa hè đỏ lửa . Tôi thầm nhớ , thầm gọi những cái tên đồng đội . Thầm nhớ những tên làng ở chốn Sa Thày có những cây Pơ lang cổ thụ dưới chân Chư Mom ray. Bất giác tôi lâm nhẩm hát ..” đường lên chư mom ray gặp mây bay con nhớ tóc bác, Đường cắt rừng khuya nhìn sao sáng con thấy bác cười. Bác Hồ ơi” Ngày ấy đơn vị tôi ai cũng thuộc bài hát này. Bài hát “ Nhớ Bác trên đường đi chiếm lĩnh” . Có tiếng chuông điện thoại reo, thì ra bạn tôi Khuất Duy Hoan nguyên phó tư lệnh quân đoàn 3 cũng là phó đoàn của chúng tôi đi tiền trạm đang ở sư đoàn 320 gọi . Hoan cho biết xe thuốc , xe chở hơn 2 tấn quà và đồ thiết bị khám bệnh đã tới an toàn. Bạn tôi nói trong tiếng cười : “ Chỉ lo các cụ bác sĩ khỏe mạnh để còn đuổi cái ma cho buôn làng " . Hoan cười, tiếng cười của một chỉ huy dạn dĩ chiến trận mà hiền như nước chảy.

Chúng tôi đến Pơ Lây Cu lúc hoàng hôn buông sau dãy núi Chư rông ràng, mặt trời chìm về phía Đức Cơ. Đêm nay tôi ngủ ở nhà khách sư đoàn. Ngay cổng vào là nhà tưởng niệm liệt sĩ sư đoàn. Bốn bức tường đá lanh ghi 14 ngàn cái tên liệt sĩ của sư đoàn 320 .. Đâu là tên anh họ tôi? Đâu là tên bạn tôi ? Chiến tranh lùi xa quá rồi mà đất nước tôi nhiều những vết thương lên da non cứ lâm nhâm ngứa. Ngứa mãi. Tôi không ngủ. Tôi ngồi rà lại kế hoạch mà đồng chí phó CN Chính trị Sư đoàn trao đổi với tôi kĩ càng. Đồng chí Bác sĩ CN quân Y cứ như một trưởng dự án y học của tôi ở Hà Nội . Anh kĩ lưỡng chi li tới từng chuyến xe từng bàn khám bệnh. Các anh đã đi tiền trạm dưới buôn làng lo cho đoàn nơi nghỉ trưa trong cái nóng mùa khô Tây nguyên. Ngày mai tôi sẽ trở về nơi tôi có 3 năm trời chiến đấu . Ngày mai tôi sẽ gặp lại những đồng bào đã cưu mang tôi những ngày đói cơm thiếu thuốc . Ngày mai tôi sẽ đi tìm mảnh nương cà đắng, tìm con suối làng Dịt thân thương ngày nào. Ngày mai tôi sẽ tới vùng đất mà bạn tôi những sinh viên Y Khoa Việt Bắc nằm lại không về.

****

14/4/ 2019
Trời chưa sáng. Các bác sĩ đã dậy. Tiếng ve Tây Nguyên bùng lên như báo thức lúc 5 giờ sáng. Kì lạ quá . Đúng hôm nay của 44 năm trước chúng tôi cùng đại quân sau mười ngày hành quân từ Cheo Reo đã về đén Chơn Thành. Từ đây chúng tôi vào trận cuối ở hướng tây bắc Sài Gòn. Hôm nay tôi và bạn tôi trở về vùng đất ngày ấy đã ra đi. 
Xe rẽ về Đức Cơ . Ở ngã ba Hàm rồng còn sót lại những bông hoa Dã Quì cuối mùa . Tôi cố tìm một ngôi nhà sàn mà không thấy. Tôi cố tìm một già làng đóng khố như người dẫn đường cho chúng tôi ngày xưa mà chỉ là dĩ vãng. Chỉ còn đây những cánh rừng cao su và rừng cà phê xanh hun hút. Tôi không còn thấy lồ ô hay rừng già mà vẫn thấy những cánh rừng khộp từ phía Chư bồ chạy ra cửa khẩu Lệ Thanh. Ngày đầu tiên chúng tôi khám bệnh cho đồng bào làng K” La . Khi chúng tôi đến những bàn khám bệnh mà các đồng chí quân y sư đoàn và địa phương đã chuẩn bị kĩ lưỡng . Bỗng dưng cảm thấy mình như có lỗi . Chúng tôi đi trả ơn cơ mà . Thế mà chúng tôi lại được đón tiếp như khách. Tôi thấy sống mũi mình cay cay. Bác sĩ Bằng Đình già nhất đòan là người có bệnh nhân ngồi sớm nhất . Tôi nhìn sang người đàn anh kính trọng của mình thấy khóe mắt rung rung . Anh đang hỏi bệnh cho một phế binh VNCH. Hai người đàn ông đều già nhìn nhau thì thầm trao đổi cách chữa bệnh đau bao tử của người lính chế độ cũ. Người đàn ông ấy quay trở ra rồi mà bác sĩ Bằng Đình vẫn bâng khuâng . 
Các bạn tôi không ở chiến trường này như tôi nên không biết nơi chúng tôi khám bệnh cho đồng bào đây chính là kề ngay sở chỉ huy cũ của Sư đoàn tôi năm 1972 – 1973 . Trưa hôm ấy trong bữa cơm tại hiện trường Khuất Duy Hoan ghé tai tôi . Mày ơi chỗ này chính là chỗ ngày xưa tao và thằng Trọng Luân tham gia hội diễn Văn Nghệ Sư đoàn 320 mày ạ. Tao nhớ ra rồi , hôm ấy bọn tao còn được nhà thơ sư đoàn Khuất Quang Thụy cho một nhúm thuốc đồng bào. Tôi ngước ra ngoài rừng cà phê . Nắng vàng ươm, nắng hắt màu xanh lên giời có những túm mây tròn như cái nón trắng bông treo lơ lửng trên trời Đức Cơ .

Trong những bệnh nhân những đồng bào K” La đến khám bệnh và nhận quà của đoàn hôm nay gồm 252 người. Đồng bào không còn đóng khố cởi trần như ngày xưa khi tôi ở đây nữa. NHưng nhìn những bàn chân đen đúa và bàn tay sứt sẹo của họ , nhìn khuôn mặt hốc hác vì bệnh dạ dày bệnh phổi vì bụi đất bệnh lị vì nước nôi thiểu thốn, những đứa trẻ suy dinh dưỡng mà đau lòng. Chiến tranh lùi xa quá rồi maf nỗi thèm cái chữ, thèm cái hát múa trong ti vi vẫn hiện hữu thường trực buôn làng . Chúng tôi trao túi quà cho họ mà tay mình cũng run run . Chúng tôi run run vì thấy mình có lỗi , thấy mình nhỏ bé quá trong bể đời yêu thương đồng loại. 
Ngày xưa, đồng bào khổ lắm. Sinh con ra rồi con chết bệnh cũng chỉ biết nói Giàng nó bắt đi chứ. Giàng bảo đi là đi thôi. Không có cái thuốc chỉ có con ma . Con ma đi khắp bản này bản khác bắt cái đồng bào. Những năm bộ đội về đánh Mĩ đồng bào Tây Nguyên mới biết là chỉ có cái bác sĩ mới diệt được ma thôi. Nhưng bác sĩ ít ít , lâu lâu mới về… còn ma thì nhiều hơn bác sĩ .
Đêm ấy chúng tôi ngủ lại ở Chư Ty. Tôi và Khuất Duy Hoan không ngủ. chúng tôi đi bộ râ nhà bia Chư Bồ . Nơi đây đồng đội tôi Nén nhang lặng lẽ đỏ, và trong đêm chúng tôi lại nghe thấy tiếng ve bùng lên trong rừng cao su hệt như hơn bốn mươi nắm trước. Đứng ở đây tôi nói với Hoan, mày ơi đã hơn bốn mươi năm rồi mà đồng bào Tây Nguyên vẫn khổ mày ạ . Cả hai chúng tôi đều im lặng. Đêm Đức Cơ nhiều ngôi sao màu ba zan quá.

15/4 
Ngày thứ 2 đoàn chúng tôi về xã Y A Lang. Từ lúc xe rẽ vào xã , tôi đã bồi hồi. Ya Lang với tôi không có xa lạ gì. Chỉ là lâu quá không về đây thôi. Tôi bảo với các bác sĩ trong đoàn đây là Làng Dịt. Nói đến làng Dịt người lính B3 ai mà chả nhớ một thời chiến sự Làng Dịt sau cắm cờ hiệp định 1973. Ngày ấy nơi đây đã từng có nhà Hòa Hợp . Nới hai bên Quân GP và quân lực VNCH lạp nên mái nhà chung để gặp gỡ trao đổi với nhau về biện pháp thực hiện hòa bình. THế rồi chuyện Hòa Hợp không thành , làng Dịt trở thành tuyến đầu của sư đoàn 320 suốt những năm 1973 – 1975.
Hôm nay các bàn khám bệnh của đoàn tôi hồi hộp chờ xem có ai nhận ra đoàn trưởng Đinh Ngọc không? Các bạn gái cùng lớp 67 ngày xưa nhấm nháy với vợ tôi – Bác sĩ Kim Minh ngồi bàn bên rằng, để ý xem có đồng bào nào giống "bác sĩ chồng" không? Nắng lổ đổ trên những lô cao su lô cà phê . Các bác sĩ D24 của sư đoàn rất quen với khám bệnh cho đồng bào hướng dẫn bà con vào từng bàn. Có điều gì đó thật khác hôm nay trong lồng ngực tôi . Như thể có tiếng gọi. Đồng đội tôi gọi tôi, rằng mày hãy nhớ mà nắm lấy bàn tay đen đúa của bà con làng Dịt nhé . Tôi như nghe tiếng thằng Hà lớp Y 2A của tôi rằng, ..." Tao chết ở Bàu Cạn được đưa về với bà con Y A Lang đấy mày ạ . Tao đã nằm đây gần hai mươi năm trước khi được vào Nghiã Trang.." 
HÔm nay chúng tôi khám bệnh phát thuốc và biếu quà với 258 người của YA lang. Tôi cứ tiếc, giá mà chúng tôi có được nhiều tiền hơn nữa, giá mà chúng tôi có thêm thuốc thêm đường thêm muối thêm sữa để lòng chúng tôi thêm vui. Nhưng chúng tôi cũng hài lòng với chình mình khi thấy các đòng chí chỉ huy sư đoàn 320 theo dõi giúp đỡ và chỉ đạo sít sao . Giữa trưa Khuất duy Hoan mang cho tôi ca nước trà đun bằng lá chè rừng làng Dịt. Trưa ấy tôi và vợ tôi ra gốc cây Ko nia chụp một kiểu ảnh . Đứng dưới gốc cây mà lấm tấm những hạt nước mưa ve Tây Nguyên tặng lên má thấy xốn xang thời trai trẻ của mình.
Tây nguyên ai một lần qua đó
Suốt cuộc đời nghĩ lại vẫn thương nhau. 
Tôi lặng lẽ nhìn những người dân YA lang cầm túi thuốc bệnh ra về với cặp mắt tràn trề hi vọng rồi sẽ đẩy lùi cơn bệnh mà thậy rưng rưng . Cuộc đời chúng tôi ba bốn mươi năm khám chữa bệnh nhưng mấy khi nhìn thật lâu phía sau lưng người bệnh ra về ? Cuộc sống bộn bề nơi thị thành và các bệnh viện lớn làm chúng tôi chai lì cảm xúc rồi chăng? Chưa bao giờ tôi nhìn rõ gót chân người bệnh bước trên đất đỏ có những vết nứt chân chim giống mẹ tôi ngày xưa tảo tần nơi quê nghèo miền bắc để nuôi tôi. Khi chúng tôi kê đơn gói thuốc cho họ, họ run run đỡ bằng hai tay. Chúng tôi đang là người ban ơn với chính những người mà người lính chiến chúng tôi phải trả ơn họ. Tây Nguyên ơi, chúng tôi nợ đồng bào cả một thời trai trẻ của tôi. 
Chiều 15/4
Khi chúng tôi thu dọn đồ đạc để lên xe trở về Pơ lây cu thì nhìn thấy có những bà mẹ già đến đặt vào tay chúng tôi bắp ngô luộc còn nóng hổi . Có đứa trẻ gầy guộc buộc con chim sâu trên cổ tay đem tặng cho tôi. Tôi bảo bé, hãy để con chim sống với rừng Tây Nguyên sống với Giàng với Dịt Le, Dịt zông Dịt Phàng em ạ. Nó cười . Rồi chay đi. Xe ra đường 14 tôi ngước lên đỉnh Chư Ga Ra ngày nào tôi còn là y tá dưới c9 d9 của sư đoàn 320 chốt trên ngọn núi kia.
Đêm chia tay ở Tây Nguyên chúng tôi uống rượu cần. Chúng tôi hát bên các chiến sĩ đại đoàn Đồng Bằng. Chúng tôi nhận được lời thăm hỏi của tư lệnh quân đoàn 3. Tôi được sống với sư đoàn cũ của tôi trong chuyến tri ân về với đồng bào nơi tôi từng chiến đấu. Xe lại qua Kon Tum ngược về phía bắc. Một tuần qua chúng tôi những người lính quân y 67 và những người bạn ở bên nhau. Những người bác sĩ đã già. Tôi yêu các bạn, tôi cảm phục anh Bằng Đình, tôi nhớ Quang Hải Dương, Tiến 198, Bích Hà Triệu Phong, nhớ bác sĩ Trang , bác sĩ Minh Thìn, bác sĩ Thanh Hương , bác sĩ Hồng Lê, Bác sĩ Thủy và Kim Minh, nhớ các anh các chị các em Kĩ thuật viên tận tình đẹp người đẹp nết, nhớ hai em lái xe chu đáo nhiệt tình, cả những người đã đón tiếp và yêu quí chúng tôi trên dọc đường hành quân bắc nam vất vả. Nhớ bạn tôi Khuất Duy Hoan, nhớ thượng tá Vĩnh, nhớ bác sĩ chủ nhiệm quân y sư đoàn 320 tên Nam nhớ những chiến sĩ sư đoàn đã giúp đỡ chúng tôi suốt những ngày về với Đức Cơ . Và trên hết tôi nhớ, tôi biết ơn đồng bào Tây nguyên yêu quí .

Gia Lai 16/4/-- Hà nội 29/4 / 2019
Đinh Trọng.

No comments:

Post a Comment