Chiều đổ bóng. Nắng khua giòn tan lên chòm lá cây muỗm già. Loe
hoe vài con ong trên mấy chùm hoa ở những cành chồi. Những con ong cuối
cùng lấy nhị hoa muộn màng rồi cũng biến đi mất. Người đàn ông đã già
ngồi dưới gốc cây muỗm cổ thụ cụt ngọn, cành lá cũng cộc cằn gộc gạc và ở
những tụm lá xanh vẫn trổ hoa. Con dốc vào bản biêng biêng qua mấy gốc
muỗm cổ thụ và liền ở đấy là khu nhà mồ. Vài chục nấm mồ to nhỏ mới cũ
lạnh lùng hoang phế. Những nấm mồ đất khô đỏ cái có mái che cái phơi vò
võ ngoài trời. Vương vất trên đám mồ là những thứ đồ dùng cũ mới của con
người. Cả những cây hoa dại chả biết trời gieo hay người trồng hoa bé
như cái cúc áo lạnh lẽo vàng. Một con quạ đậu im như chết trên đầu một
bức tượng. Bức tượng người đàn ông thổi tù và. Cái tù và vênh lên giời
to như ngọn măng chổng ngược. Con quạ thấy có người đi từ dưới dốc đi
lên kêu quà quà rồi bay vút lên trời xám. Người đàn ông giật mình cứ ngỡ
như pho tượng kia vừa thổi tù và phát ra tiếng quạ kêu não nùng.
Nắng sắp tắt. Những người đàn bà từ nương về gùi đầy những rau
rừng những quả bầu nước lên dốc. Họ đi chậm chạp, quai gùi kéo căng bầu
ngực, khiến cặp vú hoang dã vênh lên. Những cánh tay trần nâu bóng
khoanh trước bụng. Họ nhìn nghiêng vào khuôn mặt lạnh băng của người đàn
ông miền xuôi xa lạ. Người đàn ông vẫn lặng im, khắc khổ hệt như một
pho tượng. Ông nhìn lịm vào pho tượng mốc thếch trên một nấm mồ choèn
choèn không có mái che. Đấy là một pho tượng người đàn bà bụng chửa. Hai
tay người đàn bà gần như đan vào nhau đỡ lấy cái bụng to chừng như bầu
thai 8 tháng. Khuôn mặt tượng hả hê bao nhiêu thì lại nặng nề bấy nhiêu
và nhìn hút vào xa xăm. Mặt của người đàn bà bụng chửa hướng về phía
đông, mặt trời lúc này đã ở phía tây khiến mặt người đàn bà càng thêm bí
hiểm như một tấm ảnh ngược sáng. Xung quanh đấy những pho tượng đủ kiểu
mới có cũ có chả cái tượng nào giống cái tượng nào, hệt như một cộng
đồng đang tồn tại và mỗi thành viên chả ai giống ai. Ông như mình hồi
đang trai, hồi ấy và cho tới tận bây giờ ông vẫn tự hỏi mình sao những
người đàn bà Tây Nguyên họ hay khoanh tay trước bụng mỗi khi thân xác
con người và tinh thần của họ gặp phút giây sa sút hiểm nguy? Có lúc ông
tự trả lời, rằng bụng người đàn bà luôn chứa một sinh linh tiềm tàng.
Nói như đồng bào là ở đó, trong bụng người đàn bà có cái thằng người be
bé, vì thế cứ khi nào họ gặp tình huống bất thường họ luôn có bản năng
giữ lấy bụng giữ lấy sự sống của thằng người be bé đang nằm trong cơ thể
họ. Bàn tay đàn bà ôm lấy bụng là hình ảnh cô đọng nhất của sự chở che
cho cuộc sống nhân gian, cho sinh tồn. Vòng tay đàn bà ôm gọn nỗi niềm
sung sướng và khổ hạnh cho cả thế giới. Ôi đàn bà! Thế mà ngay ở trong
vô thức hay ý thức thì tượng người đàn bà cũng luôn ám ảnh nỗi khốn khổ
hơn đàn ông. Ông đọc đâu đó về những bức tượng nhà mồ Tây Nguyên tỏ rõ
một thời kì Mẫu quyền. Nhưng với ông, bao cái đau đớn trường tồn đều hết
thảy in hằn lên những khuôn mặt đàn bà.
Ông ngồi đây từ
lúc mặt trời chưa lên đến đỉnh đầu, từ lúc bóng pho tượng nằm ngửa đầu
về hướng tây. Sang chiều bóng pho tượng nghiêng sấp về hướng đông và khi
mặt trời sắp lặn thì bóng nó nằm úp hẳn xuống đầu vươn về phía biển và
chân đạp về dẫy núi Phượng Hoàng đằng biên giới. Ngôi mộ nông choèn
choèn bởi bao nhiêu năm nay không ai đắp điếm đậy điệm gì thêm. Nó bị
mưa gió sối sả khiến đổ ẹp xuống chỉ có lá rừng phủ tả tơi suốt hai mùa
đủ để tồn tại cái nấm đất lùm lùm cô độc. Kì lạ, khu nhà mồ này có chừng
vài chục pho tượng. Mỗi pho tượng đều một vẻ âm thầm. Cái đặc trưng của
tượng nhà mồ là dù có phơi nó ra chỗ nào thì nó cũng âm thầm. Người
ngồi bó gối, chống cằm, người gò lưng đeo gùi lên dốc, người hỉ hoan
uống rượu cần, người ôm con nhỏ, người giận dữ nhìn xoáy vào không
gian…có pho tượng hình người đàn ông ngoái cổ lại nhìn về phía bản làng
như nuối tiếc điều gì ở chốn dương gian…Ngay cả những pho tượng phồn
thực nó cũng đơn giản đến kiệt cùng. Pho tượng nào cũng còn hằn lên
những nhát rìu thô kệch vội vã, ông từng nghĩ nếu những pho tượng nhà mồ
nhẵn thín chỉn chu sẽ giống hệt hàng sành sứ trên vỉa hè Hà nội nơi ông
đang cư ngụ. Ở đây những sự níu kéo trần thế cũng rất vội vã và dù ý
thức có hi vọng đến mấy thì nỗi thất vọng cũng tràn trề lên khuôn mặt
tượng. Những pho tượng là bản sao của linh hồn người trước khi chết, vì
thế những pho tượng nhà mồ luôn đồng điệu với hồn hoang của kẻ nằm dưới
mồ.
Ông vẫn ngồi bên nấm mồ có tượng người đàn bà chửa, ông nhìn vào pho tượng gỗ cho tới khi trời tối hẳn thì ông thốt lên :
- Hơ Leo ! ơi Hơ Leo. Tiếng ông khô khốc rơi tọt vào màn đêm cao nguyên. Ông khóc . Đêm chìm xuống.
Có bàn tay nào vỗ vào vai ông. Ông thảng thốt.
- Cái A trưởng Thìn về thôi. Giàng đi ngủ rồi, Hơ Leo cũng đi ngủ
rồi. Mình về với người sống thôi.Thì ra là trưởng bản Rơ Phiu. Rơ Phiu
tìm mình à? Trưởng bản cũng sấp xỉ tuổi ông Thìn nhưng tinh nhanh. Ông
bảo :
- A trưởng vẫn đi đêm như con cú đấy chứ. Rồi Rơ phiu cười như tiếng gió:
- con cú già là cũng lười vỗ cái cánh, lười con mắt tìm bắt chuột rồi. Con cú già con cú lại hiền như con chim ko tia rồi.
Ông đứng lên, chân ông tê dại. Già Rơ Phiu vội đỡ lấy tay ông. Hai ông già vịn vai nhau về bản.
Đêm ấy trên sàn nhà trưởng bản Rơ Phiu hai ông nói chuyện với nhau tàn
hết cả mấy gộc củi nương. Tới lúc có con chim chót bóp kêu ngoài máng
nước cả hai mới ngủ. Giấc ngủ đưa hai ông về gần bốn mươi năm trước.
Mùa khô năm ấy đánh đường 5 và Chư Nghé. Đội trinh sát của Thìn
bò ra bò vào căn cứ mấy lượt. Suốt một tuần lễ người cứ bám đầy những
vẩy đất và hoa cỏ chả đứa nào nghĩ đến tắm. Trên đường về bản Ngo Pa
Thằng Thủ a phó bảo, khiếp thằng Thìn hôi quá! Cả A cười, thằng nào chả
có mùi như thằng nào. Thằng Thủ bảo mùi thằng Thìn giống mùi đồng bào.
Lập tức có cặp mắt sáng quắc liếc về phía thằng Thủ.
- Mùi đồng
bào là mùi cách mạng đó. Mày không ưng đồng bào à? Mày làm cách mạng mà
cái miệng mày không quán triệt cách mạng chớ.
Mọi người giật mình
rồi im bặt. Người vừa nói là đội trưởng du kích làng Ngo Pa dẫn đường
cho A trinh sát đang kéo cái khố vẻ bực tức. Thìn cười :
- Ầy dà,
bộ đội Thủ nó nói vui như con chó con mà. Rơ Phiu đừng buồn à, buồn là
cái suối ít ít chảy là không vui đoàn kết à. Rơ Phiu chen vọt lên trước,
bước thật nhanh mặc cho gai xấu hổ quèn quẹt hai bắp chân trần cái đuôi
khố văng bên này bên kia.
Đến đầu bản, một lũ con gái lấy nước về.
Họ gùi những quả bầu khô đen như mun quấn những lá chuối tươi làm nút
rất khéo. Lũ con gái nép vào vạt cỏ tranh cho A trinh sát lên trước.
Thìn đi sau cùng, một cô nhìn vào Thìn nói khẽ bằng tiếng kinh: Anh mệt
không? Chỉ có Thìn nghe tiếng và Thìn thoáng kinh ngạc. Cô gái cúi xuống
rất nhanh và Thìn cũng rất nhanh hiểu. Im lặng. Tối ấy, Thìn băn khoăn.
Một người con gái Ê Đê nói tiếng kinh bằng giọng người kinh nam bộ? váy
ấy, áo ấy là của người Tây Nguyên. Nước da nâu ấy cũng là người Tây Nguyên. Chỉ có con mắt, mắt ướt và thăm thẳm và lúc Thìn đi sát vào cô
ấy nhưng không có “mùi đồng bào”. Tối ấy họp tiểu đội xong, Thìn hỏi đội
trưởng du kích Rơ Phiu về cô gái gùi nước lúc chiều. Rơ Phiu bảo, nó là
người Bình Định dưới xuôi chớ, nó vẫn đi xe ô tô lên bán hàng Đức Cơ bị
cái chiến dịch cắt đường về. Hồi cắm cờ nhiều đồng bào kinh bị kẹt lại
cách mạng cho về các bản để làm đồng bào Ê Đê với làng mình chứ. Nó
thành đồng bào rồi. Nó mặc váy đồng bào làm nương đồng bào, đồng bào
cũng làm cho nó nhà sàn bé như cái chòi nương đẹp đẹp chớ. Nó vào du
kích nhưng mình không cho cái súng đâu chỉ cho con rựa thôi, làm du kích
nó chỉ biết hát bài anh Núp thôi. Thìn hỏi Nhà nó đâu? Rơ Phiu chỉ cái
nhà nhỏ xíu đang bập bùng lửa. Thìn nhìn sang cái cửa bé quay sang đúng
nhà Rơ Phiu, người con gái ngồi giữa cửa, lửa hồng sau lưng khiến cái
bóng đàn bà phập phồng lung linh. Cô ấy đang nhìn sang phía mình.
Làng Ngo Pa này ở gần đồn điền Lệ Thanh. Năm 1972 làng bị pháo
giặc bắn tan hoang bởi khi bộ đội đánh Đức Cơ VNCH nghi có phẫu quân y
gần khu vực này. Đằng xa phía tây là núi Phượng Hoàng, còn phía bắc có
con dường 5 chạy quành về phía thị xã, dân bản chạy tứ tán vào rừng nay
lại trở về. Sáng sớm nay A trưởng Thìn và một chiến sĩ về báo cáo, bộ
phận còn lại vẫn chốt ở bản Ngo Pa do A phóThủ phụ trách. Dọc đường Thìn
nghĩ về trận đánh xắp tới của tiểu đoàn phối thuộc với Trung đoàn bạn,
Thìn nhớ lại bên nam đường 19 cũng có những bản có riêng từng khu người
kinh dưới Bình Định Qui nhơn kẹt lại sau khi hiệp định cắm cờ hai bên.
Thìn nhớ cặp mắt người con gái Qui nhơn chiều qua. Thìn chưa có người
yêu chả hiểu thế nào là cửa sổ tâm hồn ấy vậy mà chỉ một cái liếc rất
nhanh và giọng nói lí nhí anh mệt không của người con gái ấy làm anh bứt
rứt. Con đường về sở chỉ huy leo lên những ngọn đồi thật dài đầy hoa
Quì. Chiều qua lúc đi sát vào cô gái kẹt đường về Qui Nhơn ấy Thìn thấy
có mùi hoa Quì. Khuya đêm qua, đội trưởng du kích Rơ Phiu nói nhát gừng
lúc Thìn buồn ngủ lắm rồi. Tiếng Rơ Phiu eo óc hệt như tiếng suối lúc
mất lúc không… Có một du kích ưng cái bụng bắt Hơ Leo làm vợ mà Hơ Leo
không ưng. Chịu chả thể hiểu con Kinh Hơ Leo nó nghĩ gì, nó rực rỡ như
bông Pơ lang mà nó cũng lạnh lùng như vòi nước suối. Rơ Phiu ngáp trong
tiếng củi nổ lách tách miệng vẫn kể, Hơ Leo đẹp Hơ Leo hiền nhưng đồng
bào không hiểu cái bụng nó nhớ ai ưng ai đâu bộ đội Thìn à…
A trưởng Thìn trở lại bản Ngo Pa vào ba ngày sau. Lần này tiểu đoàn yêu
cầu A trinh sát tổ chức lấy con đường để du kích và nhân dân sẽ đưa đón
bà con về vùng giải phóng xắp tới. Thìn về đến Ngo Pa và tổ chức họp
với đội du kích của Rơ Phiu. Trong lúc mọi người đang thảo luận sôi nổi
Thìn nhìn xuống thấy Hơ Leo nhìn đăm đắm mình. Có gì đó như con thằn lằn
bò đằng sống lưng. Cũng lúc ấy A phó Thủ bắt gặp cặp mắt Hơ Leo. Đội
trưởng Rơ Phiu đứng dậy nói tên những du kích sẽ bám theo bộ đội để đưa
bà con ra khỏi vùng giải tỏa. Có tên Hơ Leo vì Hơ Leo là người kinh, vì
căn cứ sắp tấn công này đa số là người kinh. Hơ Leo gật đầu tỏ vẻ ưng ý.
Họp xong Thìn vác súng đi vòng quanh bản giống như mọi lần. Mùa
khô, trời cao nguyên chỉ có gió và sao. Gió chạy vèo vèo trên những sườn
đồi đầy cỏ tranh và gai xấu hổ. Gió chạy vút vào biên giới phía đằng Tây, trước khi gió đến núi Phượng Hoàng thì nó đã òa trên mấy vạt rừng
cỏ tranh cao nghi ngút quanh làng Ngo Pa. Có bóng người đứng ở đầu bản
nơi xuống vòi nước. Thìn chầm chậm bước tới.
- Anh lại đi rình đấy à ? thì ra Hơ Leo đứng dưới bụi lồ ô.
- Sao lại là đi rình? Bộ đội xem xét tình hình đó chứ.
Thìn vượt lên ngọn đồi cỏ tranh. Hơ Leo gọi :
- Đợi em chút. Thìn ngưng lại chợt nghĩ nguy hiểm chứ chả chơi nhưng
anh vẫn dừng lại chờ. Hơ Leo lên ngang Thìn bước soàn soạt trên cỏ mùi
tóc Hơ Leo như hăng hắc như hoa Quì . Hơ Leo bảo, em muốn nói chuyện với
anh. Rồi đột nhiên Hơ Leo kéo tay Thìn đi nhanh về sườn đồi cỏ tranh
rất rậm có những lối tròn như cái hang khổng lồ dưới tấm thảm cỏ.
Hai người đã ở xa bản. Mùa khô sương khuya mát chứ không lạnh. Hơ Leo
ngồi xuống, cái vòm cỏ kín như kén tằm. Mùi người đàn bà và mùi cỏ dại.
Tưởng như chưa bao giờ có chiến tranh nơi này.
- Hơ Leo không
sợ kỉ luật à? Hơ Leo cười , ai kỉ luật được em ha anh. Mà thôi em là
Liễu, họ của em là Huỳnh. Em kẹt lại đây người dân tộc gọi Liễu thành
Leo rồi gắn cái tên Hơ cho nó ra dân tộc. Chừ em ra cô Hơ Leo .
Em
kể, em ở Qui Nhơn học trung học tới lớp 11 rồi bỏ ngang đi buôn lên Pơ Lây Cu. Má em bệnh nhưng không muốn bỏ mối làm ăn trên này. Em vừa quen
việc thì xảy ra cắm cờ bây giờ kẹt lại đây… biết bao giờ em về với má.
Em lại kể, em biết tôi từ đợt tháng 1/73 khi ấy tôi đưa bà con chạy ra
khỏi Đức Cơ. Rằng những đêm buồn em muốn tự tử ở Ngo Pa. Bỗng một lần em
đã nghe anh nằm võng hát. Lâu nay em chỉ biết lính Cộng Hòa. Họ bảo
lính Việt Cộng ngu dốt và ác lắm thế mà em đã nghe anh hát Trở về mái
nhà xưa. Anh hát Miền quê pơ ro ven xơ. Đêm ấy em khóc rất nhiều. Em đã
từng nhìn thấy các anh ăn cơm với dân bản, thấy các anh chia cho lũ trẻ
miếng cơm nắm ít ỏi của mình. Rồi các anh đào hầm tránh pháo cho dân.
Các anh đi, em ngơ ngẩn hoài, em cố sống để chờ ngày giải phóng em về
xuôi. Em sẽ mang theo hình bóng những người lính giải phóng em từng gặp.
Em mang cái tên Hơ Leo này và lâu rồi em không được nói tiếng kinh. Em
như một người ở vùng đất khác lưu lạc tới thế giới này. Thấy anh trở
lại em mừng quá. Khi bị kẹt lại vùng đất cương thổ hoang dại này em nghĩ
đời con gái em chấm hết . Em sẽ phải lấy chồng một anh trai rừng nơi
thiêng hoang này ư? Những chuyện trong tiểu thuyết rùng rợn cứ hiện về.
Bỗng một ngày em lại nhìn thấy các anh. Em lại thấy mình là con gái, lại
là nữ sinh trung học. Quân giải phóng là cái tên rùng rợn cho VNCH. Vậy
mà em thấy các anh dễ thương, thấy hiền khô. Hình như anh cũng có học
hành chi đó hả? em thấy anh biết mấy bài hát châu Âu mà ở Qui Nhơn chỉ
mấy anh tú tài mới biết. Nhìn thấy anh, em ham làm đàn bà quá. Anh à, em
chỉ muốn rằng em có con với một người như anh. Lúc đầu em chỉ nghĩ nếu
có con với lính Giải Phóng là để em dễ sống đặng không bị gây khó dễ gì.
Nhưng bây giờ thì khác, em thương con người anh rồi. Đêm nay, anh cho
em đi anh. Trong đêm Hơ Leo cởi váy trải tấm váy ra cỏ. Tấm váy người
Tây Nguyên rộng như cái vỏ chăn bộ đội. Hơ Leo nằm bất động, chỉ có
giọng nói là vẫn đều đều chỉ có hơi thở ấm phả lên ngực Thìn. Thìn vừa
sợ vừa kinh ngạc. Thú thật ngay từ lúc chui vào cái kén tằm bằng cỏ này
bên hơi ấm người con gái nồng nàn anh đã thấy rạo rực. Giọng nói con gái
miền Nam như gió thoảng thật quyến rũ, nhất là khi Hơ Leo cởi váy trải
ra cỏ, mùi đàn bà ngai ngái như có thuốc mê. Thìn thấy hai bàn tay Hơ Leo
lùa vào ngực mình làm thân anh giật ưỡn lên. Trong bóng đêm nhờ nhờ cặp
vú Hơ Leo trắng nhoa nhóa trên má trên miệng Thìn. Thìn chúm môi ngậm
cái núm vú hăng hăng như cỏ dại. Có tiếng pháo bắn từ phía Thanh An vụt
về đằng Chư Nghé. Hai người quấn vào nhau trên tấm váy lăn lộn trong cái
kén tằm bằng cây cỏ mặc kệ tiếng ríu ríu đại bác qua đầu.
Đến
bây giờ Thìn chả nhớ những gì trong cái đêm mình trở thành người đàn ông
ấy. Chỉ thấy nhớ Hơ Leo giật mình từng cơn và vết cắn của người đàn bà
hoang dại tê tê trên ngực mình. Hai thân thể cuốn tròn lấy nhau trong
cỏ. Trời cao nguyên mùa khô nhiều sao lắm và gió trườn trượt trên chập
chùng đồi. Lại ngửi thấy mùi hoa Quì dại hăng hắc, Thìn áp mũi lên ngực
lên bụng Hơ Leo, mùi hoa Quì lại càng nồng nàn. Hai bàn tay Thìn sờ
soạng trong đêm lên bầu ngực mềm nóng hổi dinh dính những giọt mồ hôi và
thân thể trắng nhờ nhờ trên tấm váy mùi cỏ.
Chiều hôm sau tiểu đội trinh sát rời khỏi bản Ngo Pa.
Thìn gói buộc ba lô và súng đạn dặn dò anh em tập hợp để mình sang quán
triệt với đội trưởng du kích Rơ Phiu. A phó Thủ nhìn hút theo Thìn
khuất sau cầu thang sàn về phia chòi của Hơ Leo. Thìn đứng dưới sàn nhìn
Hơ Leo vừa ở nương về váy áo còn thẫm mồ hôi.
- Hơ Leo à, anh đi đây.
Hơ Leo giật mình mặt bỗng trắng bệch. Lắp bắp không nên lời.
- Hơ Leo mạnh khỏe nhé, anh sẽ quay lại đây Hơ Leo à. Người con gái
chui vào lều rồi quay ra nước mắt đầm đìa trên má loang bụi đất và mồ
hôi.
- Anh cầm lấy cái thìa súc cơm của em và con dao nhỏ này em
mang từ Qui Nhơn đó anh. Trở lại với em nha. Em ở Ngo Pa này em chờ.
Đến lúc này Thìn chợt nhớ, chả có gì tặng Hơ Leo trên người Thìn chỉ có
lựu đạn bi đông và dao găm. Thìn vội tháo bi đông lấy cái ca dưới đáy
bi đông mà thìn đã khắc chữ “TH” lên đó đưa cho Hơ Leo:
- Em giữ
cái này của anh. Thìn kịp nhìn thấy Hơ Leo khóc nấc gọi anh ơi. Đến lúc
này Hơ Leo vẫn chưa biết tên anh. Thìn ngoái lại :
- Anh là Thìn, Hơ Leo nhé . Anh Là Thìn, Liễu nhé
A trưởng Thìn không bao giờ trở lại Ngo Pa nữa. Ngay sau trận đánh giải
tỏa đường 5 Chư Nghé, Thìn được điều về bộ binh D7 làm trung đội phó.
Thế là suốt năm 1974, nằm chốt trên dãy chốt làng Dịt ở phía Tây Pơ Lây Cu. Những ngày mưa dầm, đơn vị anh chốt chui chốt rúc trong hầm, ăn pháo
bầy của địch rồi lại những trận đánh cản địch ra lấn chiếm cứ, dập vùi
lính ta với bùn đất và thương vong. Có những đêm trời quang, ngồi ôm
súng trên trận địa Thìn nhớ tới Hơ Leo và bỗng tự thấy mình đã là người
đàn ông từng trải, rồi tự mỉm cười hài lòng với điều bí mật nhất của đời
mình. Hơ Leo đang ở vùng giải phóng cách tiền phương mấy chục cây số.
Lúc này, Thìn nhớ tấm váy mùi cỏ dại và bầu ngực nóng rực của Hơ Leo .
Tháng tám năm 1974 trong trận chống lấn chiếm Làng Siêu Lệ Ngọc của sư
đoàn 23 VNCH, Thìn gặp lại A trinh sát của mình. A trưởng Thủ nheo nheo
mắt cười gọi Thìn. Trung đội trưởng ơi có hút thuốc rê bản Ngo Pa không ?
Thìn vô tư trả lời, chúng mày có à tao xin một cục. Vừa hút thuốc đồng
bào vừa ôn lại kỉ niệm bản Ngo Pa với bọn thằng Thủ bỗng nhiên Thìn thấy
bồn chồn đến thế. Bỗng nhiên Thìn nhớ cái tên Diêu Trì mà Hơ Leo đã kể
với mình nghe lạ lẫm và xa lắc.
Mùa xuân năm 1975 Thìn cuốn theo
chiến dịch từ Tây Nguyên tràn xuống Tuy Hòa rồi đến tận thành phố Sài Gòn. Cả anh và A phó Thủ đều bị thương ở trận cuối cùng. Thìn ra về từ
Sài Gòn và cuộc sống cứ thế kéo hút mỗi người cho đến lúc sức kém, lực
mòn ai cũng mới nhớ lại thời trai trẻ của mình. Kí ức của lính trận chỉ
trở về khi người lính đã già. Kí ức cứ làm họ day dứt khổ đau và nuối
tiếc. Ba mươi lăm năm sau, lứa lính sinh viên kỉ niệm ngày nhập ngũ, Thìn
gặp A phó Thủ. Thủ làm hiệu trưởng một trường phổ thông trung hoc sắp
nghỉ hưu. Hôm ấy Thủ kể rất nhiều cho Thìn chuyện về bản Ngo Pa. Thìn
ngạc nhiên khi thấy Thủ xin lỗi Thìn về việc báo cáo lên cấp trên chuyện
Thìn với cô Hơ Leo. Thật là bất ngờ, bao lâu nay cứ tưởng không ai biết
chuyện của mình. Hóa ra cây rừng con suối biết thì thằng người cũng
biết. Thủ bảo, tớ biết hết chuyện của cậu, tớ đã nói với chính trị viên
tiểu đoàn rút cậu về không để ở trinh sát nữa ,nhưng tiểu đoàn trưởng
quyết định để sau trận đánh đường 5 mới đưa cậu xuống bộ binh, còn Chính
trị viên thì yêu cầu không nói chuyện này ra và dặn tớ im lặng để không
ảnh hưởng tới tình hình đơn vị. Ông ấy còn nói rằng suy cho cùng ta đi
làm cách mạng cũng để cho con người ta sung sướng… Bao năm nay tớ cứ ân
hận về việc ấy, cứ như là đẩy cậu đi để tớ lên làm A trưởng. Cậu đi rồi,
tớ đã nhiều lần qua bản Ngo Pa và thấy Hơ Leo có chửa. Chả biết cô ấy có
qua được cái mùa mưa năm 74 bọn trung đoàn 53 đánh ra mạn đó không? Đột
nhiên Thủ hỏi:
- Có bao giờ cậu nghĩ đi tìm Hơ Leo không? Thìn ngơ ngác nghe câu hỏi của Thủ như từ trên trơi rớt xuống.
Chia tay Thủ rồi, Thìn bơ vơ đứng giữa đường, quả thật chưa bao giờ anh
nghĩ sẽ đi tìm Hơ Leo. Đã vài chục năm nay, bây giờ hình ảnh ngôi làng
có những mái nhà lợp lá trung quân có những cái vòi nước và dẫy nhà mồ
dưới gốc những cây muỗm lại hiện lên. Bóng một người con gái câm lặng
cúi đầu lên nương và đi về theo những người đàn bà Ê Đê lầm lũi. Trí nhớ
ông Thìn vụt sáng láng. Ông nhớ ra thật rõ. Nhà có tiệm bán nước mắm,
cửa ga Diêu trì. Họ Huỳnh tên Liễu.
Ông Thìn lên tàu đi Qui Nhơn. Ông xuống ga Diêu Trì . Những người
già ở đó cho ông biết có nhà bán nước mắm cửa ga có một cô con gái chết
lạc trên cao nguyên từ hồi 72. Cả nhà ấy bây giờ đi vượt biên, ngôi nhà
cũ của họ giờ thành một khách sạn nhấp nhóa đèn xanh đèn đỏ. Ông ngược
đường 19 lên Gia Lai. May mắn sao ông gặp bạn cũ. Già làng Rơ Phiu mốc
thếch như gốc cây mà vẫn nhớ tên A trưởng Thìn. Rơ Phiu dắt ông ra nhà
mồ chỉ ngôi mộ nông choèn đầy lá khô và bảo Hơ Leo đấy. Nó bị pháo Thanh
An bắn chết lúc bọn sư đoàn 23 ra lấn chiếm. Làng thương nó chớ, bụng
nó to rồi thằng người trong bụng nó cũng chết theo nó. Rơ Phiu thở dài
như gió mùa khô trên chòm lá muỗm già rồi nói tiếp, tao làm tượng cho mẹ
con Hơ Leo đó A trưởng Thìn à. Đồ chia cho nó nghèo lắm. Tao nhớ nó chỉ
có một cái gùi và cái ca bộ đội trên mồ thôi. Nhiều năm tao vẫn thấy
cái ca bộ đội mốc meo và méo mó ở đó mà bây giờ không thấy đâu, mai mốt
tao cho nó vài cái bát thôi. Ông Thìn ngồi với nấm mồ Hơ Leo dưới gốc
muỗm già cụt ngọn hai ngày. Ngày thứ ba, ông hì hụi mệt nhọc xúc đất đắp
thêm lên mộ Hơ Leo. Ông chôn cái cọc bằng cành săng lẻ cạnh nấm mồ và
chùm lên đấy cái áo bộ đội mới nguyên ông giữ từ ngày ra quân mà ông
mang theo.
Trưa hôm ấy nắng chan hòa, khu nhà mồ rất nhiều con bướm nâu
bay về. Ông Thìn ôm lấy già Rơ Phiu nói lời tạm biệt. Ông đứng rất lâu
cạnh nấm mộ, tay ông lần sờ lên pho tượng. Bàn tay khô khốc lần lần trên
cái bụng tròn của pho tượng nứt nẻ mốc thếch. Giọt nước mắt đùng đục ứa
ra. Ngửa mặt lên trời, mấy đám mây trôi qua vòm lá muỗm của cây muỗm
già như khói đốt nương. Ông gọi Hơ Leo ơi, tiếng gọi của ông lẫn vào mây
khói.
Các bạn thân mến. Có mấy lí do mà hôm nay tôi treo cái truyện này lên.
ReplyDelete- Một tuần trước tôi đi Tây Nguyên bằng con đường 19 từ Bình Định lên Pờ lây cu . Ngồi trên xe ô tô vượt qua An Khê Mang jang tôi luôn nghĩ về nó
- Cũng trong những ngày tôi ở Gia lai tôi lại đi về mạn Chư Nghé Lệ Thanh núi Phượng Hoàng, trên xe tôi lại luôn nghĩ về nó.
- Tối nay tôi lại vừa nghe đọc truyện đêm khuya của Đài tiếng nói VN về nó.
Nó hơi dài các bạn nếu đọc thì cố đọc cho hết.