[
Tháng năm, đầu mùa mưa. Hoa Quỳ ở Tây nguyên bắt đầu tàn lụi. Cả
cánh rừng mới hôm nào vàng thăm thẳm bỗng trở thành đôm đốm nâu. Hoa càng tàn
thì lá quỳ bỗng trở nên xanh ngăn ngắt. tựa hồ như rừng hoa níu kéo sự sống chờ
tới mùa hoa sau. Từ bao đời nay, cúc quỳ cứ tự nhiên sống, tự nhiên sinh sôi.
Loài hoa không đòi hỏi chăm bón, vuốt ve. ở đâu có rừng đất đỏ ở đó có cúc quỳ,
vậy thôi. Tôi đã sống và chiến đấu ở Tây Nguyên, đã gắn bó với những tên
Pờ Lây, I A này I A khác và bao đồng đội của tôi cũng vậy. Kí ức về Tây Nguyên
luôn có trong lòng tình yêu với loài hoa dại, mang dáng nắng chiều của núi rừng
đại ngàn Trung bộ.
Dạo đó tôi sợ lắm vì chuyện viết bài thơ hữu khuynh này.
Ba ba năm sau chiến tranh, tôi mới trở về Tây nguyên.
Chuyến đi này phải mất mười năm hẹn hò, phải dứt ra khỏi những băn khoăn đời
sống nhỏ nhoi mà nặng nề khó thế. Nhưng điều lớn lao của tôi lại ở chỗ tôi mang
cả bà vợ mới nghỉ hưu cùng đi về chiến trường xưa.
Hai ngày chạy xe
cật lực, tối ngày 27 tháng tư vợ chồng tôi tới Pờ lây cu. Thành phố Núi mà suốt
4 năm chiến đấu tôi và sư đoàn 320 của tôi chưa tiến được vào tới nơi. Cái thị
xã ngày xưa giờ đây hừng hực sức trẻ. Đường phố lên dốc xuống dốc cứ cuốn hút
con ngưòi khám phá, cứ như thể tôi đi lạc vào một thành phố một đất nước
bắc Âu. Đêm đầu tiên ngủ ở Pờ lây cu, tôi như người mộng du. Giấc ngủ bồng bềnh
như nằm võng năm nào. Phía tây thành phố, chỉ cách đây một tầm pháo là cánh
rừng mà tôi đã gửi lại tron đời trai trẻ, và bao bạn tôi gửi lại cả thân thể
mình. Đêm khuya, đứng ngoài ban công nhà khách binh đoàn Tây Nguyên nhìn về hướng
Đức Cơ cứ thấy nghẹn ngào, thoảng đâu đây như có mùi vị quen thuộc lắm. Chợt
nhận ra hương hoa Dã Quỳ ngoài hàng rào nhà khách, ngai ngái hăng hắc, hương
hoa giống như vị cà phê đắng, hoà vào đêm, thứ hương vị không tan mà cứ rắc bột
vào kí ức con người.
Sáng sớm. Người bạn chiến đấu năm xưa, nay là cán
bộ quân đoàn 3 đón tôi đi ăn sáng rồi cho tôi mượn chiếc địa bàn . Tấm bản đồ
địa hình mang từ Hà Nội ; chai nước, áo mưa, tăng vỗng như người ra trận theo
vợ chồng tôi lên xe. Bạn tôi bảo : Ngày xưa mày giỏi đi bản đồ thì bây giờ trổ
tài mà khoe với mụ vợ già nhé. Trong lúc xe chạy xuôi hướng nam, vợ tôi còn
đang tấm tắc khen đồ ăn tự chọn của "Hoàng Anh Gia Lai" thì chợt tôi
nhận ra ngọn Hàm Rồng. Vậy là điểm đầu tiên : lên đỉnh Hàm Rồng. Ngọn núi này
là nỗi ám ảnh của chúng tôi về những trận pháo tăng tốc ngày nào . Tôi nhớ
thằng bạn Sinh viên cùng khoa tên là Lương Lợi đã ăn pháo Hàm Rồng mà giờ đây
không biết nó nằm ở đâu. Ngọn núi là một rừng thông non. Thông xanh chen với cỏ
Mỹ. loài cỏ bông trắng như lau, nhìn ngoài vào thì kín, mà nhìn trong ra thì
quang. Văn háa Mỹ lan ra đến cả cây cỏ dại là thế . Bây giờ ngọn Hàm Rồng loang
lổ xanh, bàng bạc và đôm đốm vàng. Rừng cúc dại ở đây còn loang loáng hoa vàng
lẫn trong lau sậy. Xe tôi leo lên đỉnh núi. Dưới kia là thành phố. Mây trắng
bông trên những cánh rừng cao su cà phê. Con đường cong, triền núi cong, cánh
rừng cà phê xanh cũng cong, những đường cong nở nang chỉ có ở cao nguyên. Ngày
xưa nào tôi có thấy cao nguyên này đẹp thế. Kia là ngọn Chưkrôngkrang, kia là
ngọn Chưgara, cao điểm 784, đồn Tầm, chốt Mỹ. Con đường đỏ như son chạy qua
Thanh Bình, Thanh An rõ như trong lòng bàn tay. Khoảng rừng màu xanh dưới kia,
đứng đây nhìn gọn gàng xinh xắn , mà sư đoàn tôi từng lăn lộn bao năm giành đi
giành lại. Máu của đồng đội tôi thấm trên từng ô bản đồ . từng tấc đất bây giờ
ngun ngút xanh tươi cây trái. Chiến trường Tây nguyên nổi tiếng sốt rét và đói.
Cả sư đoàn gan góc lật đi lật lại từ nam sang bắc đường 19, lăn lóc sống bằng
củ mì, bằng rau rừng bám dân đánh địch, mà làm nên chiến thắng Đức Cơ, Phượng
Hoàng, Lệ Minh, Lệ Ngọc. Trước mắt tôi con đường 19 kéo dài thân thương nhường
nào. ở đó, trung đoàn 64 của tôi đã để lại bốn trăm trai trẻ trong bốn năm cuối
của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Từ ngã ba đường 14 dưới chân Hàm rồng, xe chúng tôi qua Bàu Cạn .
Một màu xanh ngàn ngạt của chè . Đây rồi cái địa danh mà ngày xưa lính trinh
sát thích mò tới , để được gặp người kinh , để quơ vội nắm chè xanh mang về ca
cóng . Cái đồn điền Pháp này có từ lâu lắm rồi . Bây giờ đã thành nông trường
chè nổi tiếng của cả nước . Ngày ấy , người chủ Pháp ở đây chẳng rõ vì sao hay
không muốn phiền hà mà mỗi khi phát hiện ra dấu chân trinh sát 320 là sai người
xóa ngay và không bao giờ báo cho tụi lính Cộng hòa biết . Nhấp nhô những cái
nón trắng xóa của các cô hái chè trên một thảm xanh, triền miên hút mắt .
Trong miên man chè xanh ấy, không biết Hà sinh viênY khoa nằm đâu , đại đội
trưởng Hải của C20 nằm đâu , còn bao nhiêu người bạn tôi nằm dưới bát ngát
hương chè này. Biết bao liệt sĩ giải phóng được công nhân chè Bàu cạn chôn cất
che chở bấy nay . Xe chạy theo hướng tây , qua Bàu Cạn nhìn sang bên phải , dãy
Chư rông rang, Chư gara lở lói nhưng vẫn sừng sững như ngày nào . Tôi vẫn đọc
ra những cao điểm mà mấy năm liền tiểu đoàn 8 trung đoàn 64 trấn giữ . Ngọn 784
còn đó, thi thể những người bạn tôi trên hang đá, trên ngọn suối đã về tập hợp
dưới thị xã kia chưa. Từ đồn Tầm, trải dài những vạt cà phê sang bắc đường vẫn
le lói hoa cúc quì. Thị trấn Thanh Bình, Thanh An nay dàn dạt những dẫy nhà và
hàng quán , biển hiệu bằng tiếng Anh như không hề qua một ngày chiến tranh.
Những nam thanh nữ tú và những thực khách trong các nhà hàng kia nào có thể
nghĩ rằng nơi này vào ngày 27/1/1973 hàng trăm chiến sĩ ngã xuống ngay giờ phút
ngừng bắn , trước giao thừa năm ấy . Con đường 19 ngày xưa gan góc đầy những sự
tích anh hùng bây giờ đẹp như đường cao tốc ngoài bắc. Vẫn những dặng mít ,
soài và cây Sa bu chê sai lúc lỉu ven đường . Khúc quanh dốc lên đồn Tầm tìm mãi
không thấy . Chiến tranh lùi xa quá rồi, còn kí ức về chiến tranh thì vẫn tươi
nguyên, nhớ thương đến mỏi mòn trong lòng người lính
.....Từ Thanh Bình, xe rẽ
về phía nam đường 19. Chúng tôi đang đi về hướng làng DITROONG, DITFANG. Đây
chính là vùng giáp gianh giữa ta và địch những năm sau hiệp định Pari. Nơi này
tiểu đoàn 7 của chúng tôi suốt 3 năm liền chốt giữ. Họ vừa trồng sắn, trỉa lúa,
nuôi lợn, tự túc lương thực, vừa đánh giặc lấn chiếm, lại vừa giúp đồng bào
tăng gia, lập làng chiến đấu. Chúng tôi có các tổ công tác ở cùng dân, cùng làm
rẫy, cùng ăn cùng đánh giặc. Bộ đội và dân thương nhau như đồng bào thương con
chó con vậy. Các cô gái Tây nguyên bảo rằng: bộ đội vất vả như đuôi con heo,
mình thương chớ. Cách mạng là bằng nhau cả mà. Bây giờ tôi để ý tìm mà chả thấy
một cô gái nào ăn vận như ngày xưa, cái ngày nhìn các cô ở trần tắm suối đến
nao lòng lính trẻ. Chúng tôi đi về trận địa cũ mà xe cứ miên man chạy trong
rừng cà phê, cao su mươn mướt. Tìm đâu thấy những làng cũ người Bình Định , Quy
Nhơn ngày xưa kẹt lại vì đạn bom. Ngày ấy, lính 64 chúng tôi mỗi lần qua làng
DIT chỉ nmuốn nán lại ngắm các cô gái người Bình Định mặc đồ dân tộc làm rẫy.
Có cái gì đó khó nói lắm. Vì họ là người của phía địch, nhưng sao con mắt họ
chẳng xa lạ mà lại thân tình đến thế. Họ không lập làng riêng mà ở lại cùng
đồng bào dân tộc. Bộ quần áo đựoc thay bằng váy khố như người giarai, ê đê, lầm
lũi cặm cụi làm nương làm rẫy. Nỗi buồn vì nhớ chồng, chia lìa quê hương nặng
chĩu trong con mắt họ. Có điều lạ, họ không kết hôn trong những ngày li tán, họ
tin rằng rồi có ngày họ lại trở về quê hương với gia đình họ, với chồng vợ của
họ. Điều này thì có lẽ họ sáng suốt hơn cả những người lính trong cuộc như
chúng tôi. Hồi ấy chúng tôi được lưu ý rằng phải đề phòng những ngôi làng như
vậy. Tôi ngoái sang vợ và… nhớ về bài thơ “Nương chiều” viết từ hồi 1973
….Trách sao chỉ một con đường
Để sang đây, để
vấn vương nương chiều.
Dạo đó tôi sợ lắm vì chuyện viết bài thơ hữu khuynh này.
Dấu tích
nhà Hoà Hợp cũng không còn. Sau tháng 1 năm 1973. Cả ta và địch lập ra nhà Hoà
hợp để hai bên gặp nhau, để cùng hợp tác thực hiện hiệp định. Chả biết cấp trên
lo lắng ra sao chứ lính hai bên gặp nhau là chỉ kể chuyện về quê hương , cha mẹ
vợ con. Ai chả thế, chả nhớ mẹ cha và vợ con. Có những cuộc gặp gỡ lính ta và
lính nguỵ còn hát cho nhau nghe những bài dân ca của ba miền. Nhưng rồi nhà Hoà
hợp tan vỡ. Cuộc chiến kéo dài tới hai năm sau.
Chiếc xe của quân đoàn thật tuyệt. Cứ chạy trong hàng cao su 10
tuổi, mặc kệ cành cây khô, đụn mối . Chỉ thương vợ tôi, gái Hà Nội lần đầu đi
chiến trường với chồng mà chưa từng được tập luỵên ngày nào. Chú lái xe hoan hỉ
: Các anh thấy mát mắt chưa? Chả tìm đâu ra những thứ các anh kể đâu. Dân làng
ra ven lộ 19 cả rồi. Những huyện 4 huyện 5 … bây giờ thành những Đức cơ, chưpả
…rừng rú thành những lô cao su cà phê, to tiền lắm. Nhưng mà kì công , gian nan
đến tận bây giờ anh ạ. Anh em tăng gia, chịu thương chịu khó lắm, vẫn thiếu
thốn và sốt rét đấy. Được như bây giờ là công của Sư trưởng Phạm Xuân Hùng lớn
lắm. Ngày ấy các anh ấy lăn lộn hàng tháng ở đây, nào rừng rậm, bom mìn chông
bẫy và đủ các thứ dịch bệnh. Thầy trò dẫn quân đi khai phá cứ đè lên gai góc mà
đi, hàng tháng trời sư trưởng , sư phó mắc võng tại hiện trường kém gì hồi các
anh ở kiềng Nhà Lá. Nhắc tới kiềng Nhà Lá, Tôi giở bản đồ. Ô, đâu còn xa,
chỉ vài cây số nữa thôi. Nhưng chú lái xe bảo rằng, anh ơi, anh chỉ có thể ngắm
cà phê thôi. Làng bản tập trung theo phân vùng kinh tế rồi. Cả cánh rừng khu
tăng gia trồng cây, nuôi bò bây giờ cũng chính là một vùng chiến địa khi xưa
của sư đoàn. Lãnh đạo sư đoàn hẳn là muốn mỗi người lính giờ đây phaỉ sống có ý
nghĩa trên mảnh đất mà máu của cha anh mình đổ xuống cho màu xanh của cà phê,
cây trái vươn lên nên mới chọn đất này làm cứ tăng gia. Trong những ngày làm
nương rẫy, họ vẫn gặp những dấu tích của đơn vị mình khi xưa, vẫn thấy những bộ
hài cốt, những kỉ vật còn mang dấu tích người lính Đồng Bằng. Họ gặp lại đồng
đội, những tên làng, tên người yêu trên vỏ bi đông, trên chiếc hăng gô
méo mó .Tất cả chỉ còn lại có thế, còn thân xác chiến sĩ thì đã hoà vào màu đất
Ba zan. Giọng chùng xuống, chú lái xe khe khẽ, có những lúc bổ hố cao su, gặp
hài cốt. Sư trưởng Hùng, tham mưu Hoan lúc thì lặng lẽ, lúc lại thì thầm với
nhau, rồi các ông ấy khóc, bỏ cơm, những lúc ấy chúng em buồn theo mấy buổi.
Tôi lặng lẽ nhìn ra rừng cao su rợp mát, tưởng như đâu đây cả đại đội tôi, cả
trung đoàn tôi trở về xếp hàng . Một rừng trai trẻ và bát ngát tiếng cười..
Cho xe dừng ở Thánh Giáo, nhìn ngước lên bắc đường nhớ làng Lú,
Kiềng C24, nhớ đồi Mắt ngỗng, xa tít tắp là thao trường làng Á . Xoay lưng ngó
về hướng nam đường nhớ làng Ngo Le, xuôi đằng tây nhớ bản Lung Bang, Lung ấp.,
cao điiểm 428 với trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến, Phạm quang Bào, chính uỷ
Đinh Thế Mỹ… Bây giờ các chỉ huy của chúng tôi ở đâu, có còn mạnh khoẻ không?
Bâng khuâng giở bản đồ giữa đường, hoá ra mình đang đứng ở trận địa Chi Bồ. Tôi
phải xuống xe ở đây để cố tìm toạ độ mà lính E64 vượt qua đường mỗi khi từ bắc
đường sang nam đường hay ngược lại. Ngọn đồi cao phía nam Thánh giáo là trận
địa của đại đội pháo cao xạ đoàn 593. Một lần qua đây, thấy trên đỉnh đồi cây
cối xanh tốt và lại có cả chuối tây nữa , tôi hỏi sao ở đây chuối nhiều vậy không
lấy mà ca cóng. Nhũng người lính pháo bảo, để kệ họ. Sao lại kệ họ, họ là ai?
Thì ra trên đỉnh đồi này rất nhiều người tử trận của cả ta và địch vào những
ngày cuối năm 72. Lính nguỵ đã ủi tất cả xuống hố pháo đỉnh đồi rồi rút chạy.
Chỗ ấy cây cối xanh tốt lạ thường. Bây giờ họ về đâu? Nằm đâu? Những nấm mồ vô
danh nơi này và các vùng quê khác đâu chỉ riêng quân giải phóng?
Không thể quay về làng Ngolê, vì hai lí do : làng đã rời đi nơi
khác và tên cũ cũng chẳng ai còn gọi nữa. Có thể nó được đổi thành Tân tiến,
hay Đồng tiến gì đó cũng nên. Nhưng trong lòng chúng tôi, tên làng bản cũ vẫn
thiêng liêng làm sao. Dân bản bây giờ không hút thuốc lá trồng trên nương ngày
xưa mà họ hút thuốc đầu lọc. Những bộ áo váy nửa người kinh nửa người dân tộc
trông ngang ngang làm sao. Tìm đâu bây giờ một ngôi nhà rông lợp lá trung quân
cài bằng nan lồ ô dẻo quánh . Tìm đâu dáng em vịn tay đi nghiêng cầu thang ba
bậc lên nhà sàn. Làng bản ra đường lớn rồi . Để lại sau lưng xa ngái những mùa
hoa Pơ lang ướp đỏ tháng ba, bỏ lại những thân tượng nhà mồ ngô nghê mà
lại thâm trầm lưng chừng dốc cũ. Ba mươi năm sau, tôi vẫn chưa hiểu nổi tại sao
những ngôi làng Tây nguyên chỉ ở lưng chừng dốc, tại sao cổng làng bao giờ cũng
là những cây muỗm cổ thụ, những cây Pơ lang cao vút, tại sao đi vào làng
là sẽ phải qua nhà mồ .Xa lắm rồi , tiếng đàn goong bên suối , bản sắc người
Tây nguyên cứ lơ lớ giống người dân tộc nói chung rồi sao. Tôi
buồn, hay là tôi lạc hậu nhỉ các bạn chiến đấu của tôi .
...Trưa, chói chang nắng. chúng tôi vào một hàng cơm ở ngã ba Rừng Soài
Đức Cơ. Sân bay cũ loe loét đất đỏ. Hoa Quỳ vẫn vô tư vàng cuối đường băng cũ
kĩ. Trời cao nguyên thật xanh và mây cũng thật nhiều. Những cụm mây đặc trắng
như bọt biển tựa những quả bong bóng vút lên cao. Nhâm nhi cốc trà đá đợi cơm,
hơi nóng đầu mùa mưa quen thuộc thế, lưng áo râm râm ướt, mắt mờ theo bụi đỏ
từng chuyến xe cuốn ra cửa khẩu. Xa, hoa cúc dại cuối mùa vẫn rưng rưng vàng…
Chiều hôm
ấy, theo chân những đồng đội ở quân đoàn , chúng tôi vào thăm nhà tưởng niệm sư
đoàn. Một vùng cây trái đẹp nổi tiếng của thành phố pơlâycu, ngằn ngặt những cỏ
và hoa. Đã qua mấy chục năm im tiếng súng, trên mọi miền quê, mọi nẻo đường đi
qua, có biết bao nhà tưởng niệm liệt sĩ. Trang nghiêm, đẹp đẽ. Và bao giờ cũng
vậy, nhà tưởng niệm nào cũng ở vị trí tốt nhất cho những linh hồn người nằm
xuống còn mãi với đời sau. Mái nhà cong vút lên như hình dáng ngôi đình miền
bắc bộ. Trầm mặc, bề thế những hàng cột như chôn chặt với thời gian. Đây, điểm
hội quân cuối cùng của sư đoàn tôi. Thắp nén hương trong ngôi nhà bốn bề tường
đá khắc tới gần mười bốn ngàn liệt sĩ của sư đoàn. Trong rưng rức khói hương và
nghẹn ngào , tưởng như trùng trùng điệp điệp các anh về, ồn ào cười nói
trẻ trung. Tưởng như thấy lại hàng vạn cuộc chia li hẹn hò mấy chục năm về
trước. Về đây với các anh, bỗng sống dậy ngày xuất quân mỗi mùa chiến dịch. Mỗi
sư đoàn tạc vào núi sông một đội hình như một khu công nghiệp lớn bây giờ. Biết
bao nhiêu khu công nghiệp , khu đô thị ngày nay là hoá thân của những ngôi nhà
tưởng niệm như thế. Vào đây bỗng nhận ra những cái tên mà hơn ba mươi năm nay
mới gọi nên lời. Vào đây bỗng chợt nhận ra lỗi lầm của mình thủa còn sống với
các anh. Vào đây để đứng trước những thủ trưởng đã từng yêu thương mình và những
người dám nhận phần hi sinh cho mình còn sống. Về đây gặp các anh mới lại thêm
yêu tuổi trẻ của mình, yêu những bạn chiến sĩ trẻ măng , trẻ trung cả trong
phút hi sinh. Chúng tôi vào đây, chợt nhận ra mình còn nợ nhiều với đồng đội ,
với cuộc đời. Dẫu ngôi nhà tưởng niệm nào cũng còn thiếu thốn nhiều thứ. Nhưng
tôi chỉ sợ trên bức tường kia nếu còn bỏ sót tên ai. Xương thịt dẫu hoá thành
đất đai, sông núi , nhưng thiếu tên thì tủi lắm. Dù biết rằng hương khói
vẫn chia khắp tới các anh. Chúng tôi mong, ngoài sân kia có thêm hàng cau giàn
trầu , để bóng mẹ già mãi theo các anh và các anh vẫn bẻ cau hái trầu cho mẹ.
Và .. luỹ tre xanh bắc bộ chùm mát ngôi nhà này , ngôi nhà nhìn về hướng bắc
của đồng đội tôi.
Sáng hôm sau chúng tôi đi Cheoreo.
Nắng
tuyệt đẹp. Xe qua ngã ba Chư Sê rẽ về phía đông. Một vùng hồ tiêu khiến đất
trời xanh tím lại. Thị trấn giàu có của cao nguyên này quyến rũ như gái vùng
cao hầm hập sự sống. Tôi bâng khuâng nhớ những đứa bạn tôi ở trung đoàn 9 nằm
lại đây những ngày đầu chiến dịch 75. Đèo Chư Sê vẫn mênh mang gió như ngày
nào. Đứng trên đỉnh đèo nhìn về phía đông, là thung lũng Cheoreo, ở đấy , trung
đoàn "Dũng cảm đánh hăng"chiến đấu một trận để đời mà mãi sau này sử
sách không quên, trận đánh phá tan một quân đoàn nguỵ rút chạy. Và rồi từ trận
đánh này quân lực VNCH của tổng thống Thiệu không còn gượng nổi để tan rã hoàn
toàn.
Càng gần tới thị xã
Cheoreo tôi càng bồi hồi. Con đường rẽ về Adunhạ chen giữa cánh đồng lúa nước
ba vụ đẹp như lối vào trang traị, hay một làng sinh thái nào đó ngoài bắc. Tôi
nhoài hẳn ra cửa xe ngước lên ngọn Chưpa hiểm trở xám ngắt. Đêm 17/3/75 tiểu
đoàn tôi chèo tắt qua núi, chạy bộ xuốt 8 cây số để kịp chặn đánh địch đang cụm
lại trong thị xã. Chỉ lo không đến kịp, cả cán bộ và chiến sĩ như lửa đốt trong
người khi nghe tiểu đoàn 9 đã bắn cháy nhiều xe tăng trên đường 7. Từ trên núi
nhìn xuống thị xã lửa đỏ rực trời. Cả một khối lửa di động, hỗn loạn. Đây
rồi, xe chạy chậm lại và dừng ngay trên đầu Cầu Cây Sung. Nắng ở đây vẫn như
tháng ba năm ấy. Thưa thớt vài ngôi nhà vắng người, cây cầu dẫn con đường số 7
chạy tới đèo Tu Na, ra biển Tuy Hoà. Đầu cầu phía bắc là trận địa của đại đội
tôi khi xưa. Hai cây me vẫn còn đó, một ngôi nhà vắng hoe, nó mọc lên ở chỗ tôi
nằm bắn B40 ra đường. Tôi cứ như người bị thôi miên, lững thững đi xuống suối.
Tôi cứ như đang nhìn thấy những người bị thương cố bò xuống uống nước năm nào.
Cây cầu đổ gục và hàng đống xe tăng, xe bọc thép, ô tô đè lên nhau. Phía sau
tôi là cánh rừng thưa suối đá cạn khô, chỉ có cây khộp và cỏ dại. ở đấy hàng
chục ngàn người dân tỵ nạn và tù binh được bộ đội tập trung lại cho họ uống
nước, nấu ăn. ở cánh rừng ấy lính 64 đỡ đẻ cho dân, chữa bệnh và làm đủ mọi thứ
viêc mà nghĩ lại vẫn thấy sao mà hồi ấy mình giỏi thế.Tôi đặt chân lên thảm cát
vàng mùa nước cạn. Giống hệt như ngày 18/3 năm ấy. Người người bồng bế nhau
chạy theo cả một quân đoàn thất trận. Và rồi chiến tranh để lại những vết sẹo
trong chúng tôi và cả những lúc tưởng như vui vẻ nhất vẫn mân mẩn ngứa.
Trong cánh rừng kia, ít nhất trong 2 ngày 18 và 19/3 có đến chục ca đỡ đẻ của
đại đội 24 quân y. " Các quý ông giải phóng" giỏi quá.. Những người
già trong cơn hoảng loạn rối dít cảm ơn mấy chú y tá. Mấy chú chỉ đun
nước suối, mài dao găm mà ..Mẹ tròn con vuông mới lạ. Những đứa trẻ ra đời ngày
ấy bây giờ ở đâu, họ đã trưởng thành và đang là những công dân có ích cho
công cuộc đổi mới đất nước mình. Có ai gọi họ là những Người tháng 3 đường 7
hay không nhỉ ? Tôi không thể đi tiếp về phía Củng sơn, Phú túc, Tuy hoà. Con
đường số 7 mà trung đoàn 64 đuổi địch năm 75 thật sự là con đường hãi
hùng. Giá như kẻ địch không cưỡng ép dân chúng bỏ kôn tum, bỏ Pơlâycu mà chạy.
Giá như chúng tôi có thể ngăn được dân chúng trước trận đánh cheoreo, thì con
đường số 7 là một trận đánh
thắng trọn vẹn tuyệt vời.
Chúng tôi trở lại
thị xã Cheoreo. Nắng vàng ong ong khu tưởng niệm liêt sĩ. Vắng vẻ. Bia tưởng
niệm lặng lẽ, giản dị , bình thản nhìn ra đường. Xe cộ, người qua lại cũng bình
thản nhìn chúng tôi. 89 người có tên và 35 người chưa thấy tên tuổi của trung
đoàn tôi hi sinh trong trận chiến đấu tại thị xã cheoreo ngày ấy. Bó hương rừng
rực cháy trên tay mà nước mắt nhoè đi trong nắng. Hầu như tôi quen gần hết
những cái tên trên tấm bia này.Tôi khóc, vợ tôi cũng khóc. Muộn màng quá thể về
chuyến thăm bè bạn này . Thưa các bạn, tha lỗi cho những người còn sống như
tôi, cuộc đời bộn bề quá , bao nhiêu việc phải lo, phải làm. Cái lí của người
còn sống là vậy các bạn ạ.
Phía ngoài cổng nhà tưởng
niệm, vài người đàn ông đứng chờ chúng tôi. Đó là những cựu binh trung đoàn 64
nghe tin tôi từ Hà Nội vào đã tụ tập đón chúng tôi về nhà. Đại uý Thành người
Thanh Hoá , đại uý Trung người Thái Bình, thiếu tá Hải người Thái Nguyên. Tất
cả họ, lần đầu tiên tôi được gặp, vậy mà như người trong nhà đi xa trở về.
Chúng tôi nói chuyện trong bâng khuâng nước mắt về chiến tranh về cuộc sống và
tràn trề hi vọng vào những đứa con của mình. Thế hệ con cái lính 320 nay đang
học hành đỗ đạt đây đó. Chúng tôi lùi về phía sau để nhìn đội hình mới hành
quân. Rưng rưng tự hào vì có dáng hình của mình trong đó, của ba mươi năm về
trước, của đội hình người lính Đại đoàn Đồng Bằng anh hùng.
Lên xe rồi, còn nhận được điện thoại của một phụ nữ ở tận đèo Hocpờtó
trên đường vào Thị trấn Iapa. Rằng biết các anh lính 64 vào thăm, nhà làm cơm
đợi, mời các anh vào. Các bạn tôi bảo đó là chị Tánh, người phụ nữ giỏi giang
và yêu quí sư đoàn Đồng Bằng lắm. Không thể vào trong ấy với chị, mong gia đình
thông cảm. Chúng tôi hiểu ra máu của bạn bè tôi đổ xuống thung lũng này để có
tình cảm của những người dân dù xa xôi hẻo lánh vẫn còn nguyên vẹn, thuỷ chung
tốt lành. Mai tôi về . Còn đêm nay ngủ lại với cao nguyên. Nơi nhà khách binh
đoàn kề bên nghĩa trang liêt sĩ Gia lai. Đồng đội tôi đều xếp hàng nhìn về
hướng nam. Tất cả các anh không kịp đi tới Sài gòn ngày chiến thắng như tôi.
Niềm mong mỏi ấy của các anh đau đáu cho tới khi nằm lại mảnh đất này. Phía
trước nơi các anh nằm, một doanh nghiệp trẻ của tỉnh vừa khởi công xây dựng một
bệnh viện thật lớn. Rồi, những người dân từ các bản Lung bang , Lung ấp, từ
làng Dit ,làng lú, làng Ngo lê…sẽ có nơi chữa bệnh, dân bản chẳng còn lo con ma
làm bệnh nữa. Những bản hủi sẽ xoá dần trong kí ức đồng bào Tây nguyên. Chào
các bạn , chào cao nguyên đất đỏ. Vợ chồng tôi ít có thể trở lại Tây
Nguyên, nhưng tình yêu với Tây nguyên thì không thể đổi khác trong tôi và cả
trong lòng những ngươì dù chỉ từng qua Tây nguyên một lần.
Nghĩ
đến lúc từ biệt nơi này, nơi in dấu một thời trai trẻ của tôi mà thấy nao lòng,
mắt nhoè đi . Lên đỉnh đèo Chưsê ngoái lại, thung lũng xanh như khói, nắng vẫn
giót tiếng ve vào không trung, tít tắp là màu xanh và lốm đốm những bông hoa
quỳ dại cuối mùa.
Hà Nội
14/5/2008
In VNQD
8/2008
No comments:
Post a Comment