Chúng
tôi đi một đoàn hàng dọc. Đi trên đường tàu hỏa chỉ một hàng còn dễ ,chứ đi hàng
ngang dung dăng dung dẻ thì vướng chân nhau. Tuy vậy, thỉnh thoảng cũng phải vịn
vai nhau, đứa trên đường ray, đứa dưới tà vẹt để rinh rích cười, để bá cổ nhau những
trận tán phét. Con đường tàu hỏa ngược Lào Cai cứ dọc sông Hồng mà chạy. Lúc
thườn thượt bên bãi sông, lúc chui tọt vào một khúc rừng cọ và tre nứa rồi bất
thần ló ra ở một quãng đê dưới sông đầy bọt bồi băng táp vào bãi ngô. Bấy giờ
là năm 1966 . Làng quê vừa qua một cơn vỡ đê tàn tệ. Từ Lệnh Khanh lên Đan Thượng,
Đan Hà rồi Liên Phương , Hậu Bổng nước
sông đỏ quành quạch phủ kín lúa, kín vườn . Nước rút đi để lại cánh đồng lúa nát
thum thủm , vườn tược cũng thum thủm những giun chết và thân cây nát vẫn. Thiên
tai địch họa lại gắn liền với nhau, khiến xóm làng đã đói lại thêm căng thẳng vì
máy bay Mỹ liên tục ném bom cầu cống, dọc đường tàu. Những ngày ấy chúng tôi vào cấp 3 .
Cả lũ đi sớm lắm. Í ới gọi nhau từ 3 giờ sáng suốt Đan Hà
lên Hậu Bổng . Học cùng nhau ba năm cấp 2 bây giờ lại bìu ríu theo nhau đi học
nhờ tỉnh ngoài . Giống như những kẻ cùng hội cùng thuyền, chúng tôi thương
yêu nhau lắm. Mà thương nhau cũng phải , bố mẹ chúng tôi tuy làng trên xã dưới nhưng biết nhau cả . Nghĩ lại, thấy lạ. Hồi
ấy cứ tự kéo nhau đi nộp hồ sơ xin học, bố mẹ chả phải lo lắng gì. Quả đáng tội, bố mẹ quần nâu áo đụp, quanh năm chúi đầu ngoài đồng trong dộc biết sao việc học
đến tận cấp ba của con cái. Thôi thì đẻ con ra nuôi cho lớn là được , sự học đến
đâu hay đến đấy, mỗi tuần ba bát gạo, còn
vài cân khoai mang đi mà lo ăn lo học. Chúng tôi lủng lẳng chai lọ, tay nải túi
tăng cùn cũn, đếm từng bước tà vẹt mà đến trường .
Cuối thu , đêm về sáng trời thật nhiều sao . Đi tắt bãi tha
ma gò mô lên Hậu Bổng chó sủa rinh rom . Kệ chó sủa , mấy đứa ríu rít toàn chuyện
thằng này mang mấy bơ gạo, thằng kia mang mấy lọ tương. Thằng Vân dúi trêu chó
nhà Kiên Cương khiến nhà ấy căm lắm, cứ rình lũ đi học về là chửi. Lên đến đê Cầu
Lau, đã gặp những Chương, những Thuận, Mỹ Dung …léo nhéo đứng chờ. Trong đêm cái
dáng lừng lững là chị Hiền và Phượng
lông mày rậm . Đi một đoạn , ngó đằng sau thấy một bóng ẻo lả vật vờ như ma
trơi, thấy anh Khánh nhà mình đứng lại chờ . Thì ra là Trúc . Trúc xinh lắm
nhưng mươn mướt như cây mía bầu còn non. Cả bọn cậm cạch bước thấp, bước cao
trên đường tàu hỏa. Nước dưới sông réo ào ào . Về đêm nghe sông thì thào rõ thế.
Hình như càng đêm sông càng có tâm sự giống
như người. Nó cứ rủ rỉ khúc này lại ồn ào khúc khác. Mặt nước , bờ đê, cả
những vạt phù sa cũng vậy trong đêm phập phồng hít thở, hơi thở của quê hương âm
ấm nồng nồng . Có lẽ con người muốn hiểu
quê hương mình phải thức một đêm trên đồng
hay trên bờ sông ,vạt đồi mà nghe hương quê nức nở đến thế nào. Chúng
tôi đã sống và lớn lên với những âm thanh nghèo nhưng hiền hậu của quê mình.
Nhưng rồi chả thể sáng
đi tối về được mãi. Lấy sức đâu mà học. Chúng tôi kéo nhau đi ở trọ . Bom đánh ì oàng dọc đường , có đận nó thả cả bom nổ chậm trên cầu ngòi Sen . Tan
học chạy ra đến gần cầu là đứng lại chờ nhau, rồi nín thở chạy qua cầu. Chạy thật
nhanh , đứa nào có dép thì sách dép mà chạy. Lũ con gái thở hồng hộc mặt như
tàu lá chuối hơ lửa. Chạy đến cổng nhà ba cốc thì dừng lại mồm miệng vẫn còn tranh nhau thở đã hai ba : Cốc Cốc . Lão
ba Cốc hích chó sủa ông ổng, thế là lại chạy chừng vài trăm mét coi như an toàn, ngồi bệt trên bãi ngô nhìn bạn gái ngực phập phồng , má hây hây . Hay thế .
Mình nằm ngửa mặt nhìn lên trời , mây trắng thật đẹp bay ngang qua sông Hồng
tít tắp lên tận dẫy Hoàng Liên Sơn. Mấy cái mảng nứa của dân Hậu Bổng trôi vun vút ngoài sông, mấy đứa con gái Hậu Bổng
nheo nhéo gọi , mấy người trên bè nứa cũng kêu váng lên : Chúng mày không đi về
nhanh mà đi la…am àm . Cơn đói vẫn còn nguyên trong bụng từ trường về tới nhà
đã lo ra ruộng giúp bố mẹ . Chúng tôi từ lúc nào chả biết, như đã thành một lao
động chính trong nhà .
Rồi
tất cả lại ở trọ cùng một xóm . Xóm Nhà Giát . Chịu chả biết sao lại là nhà
Giát . Nhà gì thì nhà cứ có nhà đồng ý cho mình ở nhờ là tốt rồi . May ngày ấy
không có kiểu thuê nhà như bây giờ. Nói dại nếu mà có trò thuê mướn như ngày
nay thì ngày xưa bọn tôi thất học . Sự ở
trọ cứ như tự phân hóa vậy. Thích nhau thì ở với nhau . Ngoại trừ anh em họ
hàng thôi, chứ còn thì mỗi nhà là một nhóm tâm đầu ý hợp. Ngày xưa tâm địa trong
veo. Chả có chuyện con gái ở chung nhà với con trai . Nghĩ lại mà tiếc. Mình bảo
anh Khánh, nhà mình ngày ấy mà cho ở chung với con gái thì anh ở với Mỹ Dung hay
với Trúc ? Hắn cười, mày hỏi khó tao, mà có khi ở cùng cả hai. Hai thằng cười
phớ lớ bên cốc bia hơi góc hồ Linh Đàm .
Một chiều hè Hà Nội ,hai anh em tôi ngồi nhớ Nhà Giát và những người bạn
học thủa nào .
Xóm
Nhà Giát hay lắm, họ ăn cơm sáng và cơm trưa, còn tối thì nhịn chỉ làm củ khoai rồi đi ngủ . Họ bảo, ăn như thế thì hai buổi
đi làm đều no. Chịu chả tiêu hóa nổi cái lý sự ấy . Ngày đó xóm này, sắn khoai
chỉ để chăn nuôi . Còn chúng tôi thì ăn sắn ăn khoai đi học cả tuần . Chị chủ
nhà tôi bảo , khổ thân chúng nó ăn như lợn mà học cao ra phết. Anh em tôi nghe
thấy mà rưng rưng. Nhưng rồi chị thương, chị bảo sang “ gò Sóm “ mà nhổ sắn của
chị về mà ăn. Không biết bao tháng ngày tôi và anh Khánh sống bằng sắn gò Sóm.
Năm ngoái đi về nhìn gò Sóm đã san thành khu công nghiệp, bồi hồi nhớ cái quả đồi thân thuộc ngày xưa đang lở
loét những bê tông cây cọc.
Ở Nhà Giát có hai loại học trò ở trọ. Một loại
là con nhà nông, một loại là con nhà Thị Xã. Trông là biết ngay không cần phải
đoán mò đứa nào nhà nông đứa nào ở Thị Xã. Chả bù bây giờ ra đường Hà Nội mấy
cô bé Yên Bái Tuyên Quang mắt xanh mỏ đỏ
eo éo ; Cái lày bao nhiêu tiền ? Quít lày ngọt không ? Cho em lếm nhé .
Trong bọn tôi có mấy đứa
con gái xinh xinh nhưng không dám mặc áo Hồng Kông , mặc quần âu bó vào đít nên
vẫn chịu kém xa chúng nó. Nghĩ cũng tức. Hồi ấy cái Trúc , Mỹ Dung hay Hiền Thuận
Phượng cứ mặc quần bó đít áo ngắn pha lon xem bọn thị xã chả lác mắt. Thật ấy
chứ ! Sau này nghĩ lại, tôi cứ nhớ mấy đứa bạn gái quê tôi, nở nang cong quéo ra
phết. Nước da lại trắng , cái nở nang dậy thì của gái quê nó mặn mà lắm, không
như mấy con bé ngoài tỉnh Yên Bái, cứ tai tái điêu điêu làm sao. Lại nhớ thằng
Vân với thằng Hưng Hỗ, chiều thứ bẩy đi về dọc đường cứ tụt lại dằng sau nhấm
nháy rinh rích cười. Thì ra chúng nó đùn lại đằng sau chỉ để ngắm mông chị Hiền
và cái Phượng . Cái Thành Quì đã có lần nói phớ ra cho thằng Vân dúi nghe : Tao
biết thừa đấy nhá ! Thằng Vân sợ Thành Quì ra phết
Anh
em tôi ở nhà anh Loan đội trưởng sản xuất. Tối tối họp đội, nghe các ông bà chủ
nói chuyện về các chú học sinh mà vui buồn lẫn lộn. Một hôm anh Thái chủ nhà thằng
Vân thằng Gia nói: Bên nhà tôi toàn mấy
chú học thì ít chơi thì nhiều , nhoáng cái về nhà mất rồi, nghe đâu học kém hơn
bên nhà ông Phương. Nhà ông Phương toàn bọn thị xã ở trọ chúng nó học chổng
mông đêm ngày, trong khi bọn tôi hở cái là sang Lem sang Dóc đào măng, rồi xúc
tép bẫy chim, rồi lõng nứa rồi vào nhà
Hiền Chén xin khế về kho tép , đêm đêm cò dò đi soi cá ngủ . Ấy vậy mà còn í ới
hát chèo diễn kịch. Nhớ lại mà buồn cười. Tội vạ nhiều nhất là thằng Hưng Hỗ. Cả
xóm họ kêu ca. Nó nghịch, Nó quậy . Nó phá . Mà quậy một một mình thì còn đỡ, đằng
này nó rủ cả thằng Thành con nhà ông Huề đi nhòm ngó con gái trọ ở các nhà khác,
chị Hiển nó đánh cứ bùm bụp mà chả ăn thua gì. Một lần nó chửi nhau với bộ đội
Trung Quốc . Mấy thằng Tàu hửn ra tận xóm báo cáo với chính quyền . Thằng Hưng
khai thằng Luân thằng Khánh chửi, chứ không phải nó. Anh Loan chủ nhà tôi lại là
đội trưởng liền cãi lại: hai đứa nhà này ngoan và học giỏi không có lí nó chửi
nhau với ai. Tôi có nghe chúng nó la má
nỉ ai bao giờ. Mấy thằng tầu séo về rồi, thằng Hưng lại bị chị Hiển nó đập bằng cái chổi
cọ kêu váng cả xóm .
Tôi
và thằng Lợi nhà Đức Sáo hay đi với nhau. Thằng Lợi học khá. Nó hoạt ngôn và lại
xinh trai . Một hồi nó luôn được thầy cô yêu quí. Phải nói dạo ấy nó học toán tốt
, láu táu nói năng rõ nhanh, cách giải
bài của nó cũng rõ nhanh. Suốt dọc đường, hai đứa chỉ nói với nhau bằng tiếng
tàu. Tôi và nó tiếng tàu khá lắm. Đại để xin bánh bao , xin pin đèn và huy hiệu
Mao Trạch Đông thì khỏi chê. Nói một phát mấy thằng tàu hiểu ngay không cần ra
hiệu. Thằng Lợi lại luôn xin nhanh hơn mình thế nên bao giờ nó cũng được phần
hơn. Thằng Lợi ở với Bùi Tiến, Bùi Quang
. Bùi Quang do hồi ấy đã lớn tuổi hơn nên kín đáo, có việc gì cứ xúi Lợi ra mặt.
Lợi tả xung hữu đột từ nhà ra xóm đến trường khiếp lên được. Tôi và anh Khánh
nhà tôi nhiều khi cũng phải lép với nó . Năm sau nó ở với cả thằng Thành, em họ
tôi bên Thanh Hùng. Thằng Thành hiền lành ngoan ngoãn mặc kệ thằng Lợi chống chọi
nội ngoại giao cứ rủ rỉ cung cúc học bài, trong khi thằng Lợi hết cô Lan Hương gọi
hỏi bài, lại đến cô Trần Phương mượn vở . Hồi ấy tôi biết Lợi thích Trần Phương
lắm, nhưng đếch dám ngỏ nhời. Mà cái Trần Phương nó cũng khôn như rận chả để Lợi
ta tiếp cận đâu. Lợi luôn làm gac đờ co cho thằng Thạch lớp tôi tán cái Thái thọt.
Đến bây giờ già rồi nói chuyện đến Thái thọt Lợi sướng cứ như vừa trẻ lại. Dù
bây giờ chúng tôi ít chơi với Thái thọt chả phải vì nó thọt, mà là nó làm tới gần
mười năm cục phó Cục Điện ảnh gặp bọn tôi, nó cứ giả vờ như không nhận ra.
Chúng tôi khoái nhất là cái trò ăn trộm hoa quả.
Chỉ để cho vui chứ no béo gì quả quít, buồng chuối cây mía dọc đường. Rét căm
căm, cả trai gái hẹn nhau đi từ ba giờ sáng chui vào vườn quít đầu cầu Ngòi Sen, hái đầy bao đựng gạo. Có đận anh em tôi lấy quít ngòi Sen biếu anh chị chủ nhà.
Anh Loan khen ngon ngon ! Ngon giống quít hợp tác xã Ngòi Sen quá . Tôi và anh Khánh
giật thót người . Vụ ăn trộm quít nghĩ lại
thấy thương con Thành quì sương ướt bết quần lụa dính vào mông run lập cập vì quít Ngòi Sen. Dần dần ba năm
sau lớn lên chiến tranh cũng vào hồi quyết liệt. Lũ học trò đi học nhờ cũng rơi
vãi vô khối. Tháng ba năm sáu bẩy, đi bộ đội mất thằng Long thằng Hiến. Thằng
Nguyễn Tường Cư thì bỏ giữa chừng . Đến lớp chín thì một loạt đứa nhuận lại lớp
sau. Chúng nó lớn phổng phao lên còn tôi vẫn còi cọc, vẫn đi chân đất, muốn tán
phét với bạn gái cũng thiếu tự tin . Bây giờ thưa dần những sáng đi hái rau sếu, rau sam ngoài bãi ngô, thưa dần mày mày tao tao mà thay vào đấy mình mình tớ tớ
. Lũ con gái nhớn nhanh hơn lũ con trai , phổng phao cong ỏng má đầy lông tơ hồng
phơn phớt. Có hôm trời nắng đi trên đường tàu hỏa nhìn cái Phượng Hậu Bổng lông
tơ trên hai thái dương bết đẫm mồ hôi, hai cặp lông mày to như lá ổi phừng phừng
thằng Vân rúi thích lắm.
Vẫn con đường quen như bàn tay mình mà sao
càng ngày sau này càng thấy gần lại .
Thì ra chúng tôi càng lớn lên, càng gắn bó với nhau thì càng muốn đường dài ra , chả muốn chia tay. Chỉ có
hàng chuối bãi ngô, rặng nhãn con đê lở lói vẫn bình thản vô tình chứng kiến
đám học trò nghèo đang tuổi dậy thì và
trên đầu chúng tôi những đụn mây vẫn bay ngang qua sông, ùa lên xa hút tới đỉnh
Hoàng Liên Sơn. Chả đứa nào thành vợ thành chồng trong lũ chúng tôi ngày ấy, cho dù cái rung động đầu
đời của chúng tôi về gái trai lại thuộc về nhau lúc học chung trường chung lớp
. Vài chục năm sau gặp lại nhau, nhìn nhau nói cười phơi phới để dấu đi sự nuối
tiếc. Nuối tiếc bao nhiêu lại thấy cái nghĩa bạn bè thủa học trò nghèo thêm đẹp bấy nhiêu . Ngày ấy chúng tôi trong
sáng đến tận cùng, thật thà đến tận cùng và nhớ nhung đến tận cùng những điều vặt
vãnh nhất của một thời , vậy mà chả đứa
nào mảy may tí ti so bì hơn kém bây giờ. Đứa về xuôi, đứa lên ngược , đứa ở lại
quê hương , đứa sang tít tận trời Âu và
có cả những đứa đi chiến đấu không về . Tôi cũng nhiều năm chiến đấu ở Trường
Sơn. Trong hành trang lính chiến của mình ăm ắp kỉ niệm về những ngày đi học cấp
ba A Yên Bái. Nhớ một thời đong gạo nấu cơm bằng bóng đèn dầu. Nhớ mùi tương
chan cơm nguội, nhớ vị sôi sắn và cặp mắt lung liếng bạn gái thủa nào trên đường
Nhà Giát Văn Tiến, Yên bái, nhớ những vì sao rơi trên sông Hồng mùa nước, nhớ bếp
lửa ngồi hơ chân học bài hun hút gió bấc suốt mùa đông, nhớ một thời những người
dân củ mỉ cù mì cưu mang mình. Chúng tôi nhớ những thầy cô tận tình thương yêu
dậy dỗ học trò như con. Tôi cứ hình dung con đường mà chúng tôi đã đi qua, con
đường dậy thì của chúng tôi ngày ấy.
Trên con đường ấy chúng tôi đã từng mơ, từng ước về tương lai, trên con đường ấy
bạn tôi đã từng nhìn tôi, yêu mến tôi và tôi cũng đã từng bồi hồi vấn vương nhìn
những người bạn gái vô tư hồn nhiên khi tan lớp về trong xanh mướt bãi sông Hồng
.
Gần
nửa thế kỉ trôi qua. Tôi trở về .
Đường
tàu hỏa vẫn thế, già nua cũ kĩ .
Dòng
sông quê tôi vẫn thế, xanh ngút ngát ngô lau .
Vạt
rừng ngày xưa chở che mái trường ấu thơ của tôi không còn. Nó lở loét như mọc
da non của một thời đất nước thay da đổi thịt. Tôi dừng xe trên đầu cầu Ngòi
Sen gần ga Văn Phú. Dòng nước chảy thật hiền như được chắt lọc ra từ trong kí ức. Bỗng nghe
đâu đây tiếng cười rúc rích của bạn tôi 50 năm trước vọng về . Tiếng thằng Vân
dúi, tiếng thằng Lợi Đức Sáo. Tiếng cười khúc khích của Hiền, của Thuận của Phượng,Hoan,
Hậu ,Trúc và Túy Vụ … tiếng lanh lảnh của cái Thành Quì , tôi lại ngửi thấy hương tóc của các bạn tôi thân thuộc như mùi
đòng đòng lúa . Một ngàn ngày bàn chân chúng tôi ươm lên con đường này. Bàn
chân đất học trò nghèo xòe năm ngón hướng về phía ước mơ. Bất giác nhìn xuống
chân mình, đất đồi Yên Bái vẫn đỏ .
Một
chuyến tàu chạy qua. Tiếng còi tàu gọi tôi từ quá khứ.Tôi ngước lên nhìn trời, lại những đám mây bay sang sông.Mây vẫn bay như ngày
xưa cũ .
Hà Nội 12/2012
No comments:
Post a Comment