Tiểu đoàn lính Sinh viên mang
phiên hiệu 3002 chúng tôi vào đến chiến trường sau ba tháng mười ngày hành quân
vượt Trường sơn. Cuộc hành quân ấy đoàn tôi hao đi vài chục chiến sĩ. Vừa từ
ngã ba Đông dương về tới Kon Tum lại nhận lệnh vượt sông Sa Thầy qua đất
Campuchia tìm mót sắn để làm lương thực cho đơn vị đang chiến đấu bên đất Gia
Lai. Đoàn lính đi mót sắn toàn quân sinh viên và cán bộ giáo viên chừng trên
400 người cặm cụi hơn hai tháng bên đất bạn để kiếm cái ăn cho đơn vị. Thôi khỏi
phải kể những ngày ấy chúng tôi đói và ốm đau thế nào. Kết thúc đợt tìm kiếm
cái ăn ấy chúng tôi hành quân về Gia Lai để bổ sung xuống đơn vị chiến đấu.
Lại qua sông Sa Thầy, đi về hướng
đông. Lại gặp lính mình quần đùi gầy ngẳng nghiu trên các nẻo đường ra phía trước.
Chúng tôi đi chừng hơn mười ngày thì tới một vùng cách Pơ lei cu chừng dư một tầm
pháo. Chập chùng là những cánh rừng đầy gai xấu hổ xen lẫn những nương cà phê của
dân. Chúng tôi đói, chúng tôi sốt rét khật khừ suốt đường hành quân.
Về đến Gia lai, tiểu đoàn tôi tách
làm hai. C4 và c2 về E64 còn c3, c1 về E48. Vậy thế là sinh viên đại học Sư phạm,
đại học Nông nghiệp với một số trường trung cấp về 48 còn chúng tôi sinh viên
Cơ điện, Y khoa với một số trường cao đẳng Luyện kim, cao đẳng Xây lắp 3, Địa
chất… về 64. Hai đại đội xếp hàng ở một sườn đồi thỉnh thoảng veo véo pháo địch
bắn qua đầu. Lính cũ bảo kệ mẹ nó, lúc nào xoèn xoẹt thì nằm xuống. Nghe mà nôn
nao chỉ sợ xoèn xẹt đến ngay bây giờ. Họ xếp quân thành hàng ngang. Rồi cán bộ
đi ngắm lần lượt. Mấy tay dáng chừng cán bộ đeo túi mìn mo lần lượt nhòm từng
thằng rồi chỉ người này lắc đầu người nọ. Tôi sốt quá nằm dưới chân chúng nó,
tôi không thể đứng lên được tai ù đi rét thấu từ trong ruột. Thì ra, những pháo
cối, DKZ, thông tin, cơ quan E được ưu tiên chọn trước rồi sau đó mới đến bộ
binh chiến đấu. Tôi liếc mắt lên, thằng Ngô Thịnh K6, thằng Tiêu K4, thằng
Khang K4 đều đã được người ta dẫn đi. Tôi vẫn nằm, cơn sốt càng nặng hơn, đầu
rú o o như có con nhặng xanh trong óc. Chúng nó đi hết rồi, vài thằng cúi xuống
chào tôi để chia tay. Tôi vẫn nằm dưới đất nước mắt ứa ra nhìn theo chúng nó bẻ
cành lá ngụy trang chùm lên đầu lùi lũi đi theo người nhận quân về từng đơn vị
chiến đấu. Máy bay OV10 rà rà. Cán bộ quát tháo che kín ngụy trang vào không
thì chết cả nút. Buồn thế, mờ mịt thế pháo địch vẫn thỉnh thoảng u ú bay qua.
Tôi biết chúng tôi rất gần địch rồi.
Chỉ còn vài thằng sốt rét cuối cùng vét nốt về C7 D8. Người cán bộ nhận quân chửi
thề: đ... mẹ chúng nó, cứ thằng nào khỏe mạnh to con D bộ và trực thuộc
nhặt hết còn mấy thằng rẻ rách thì dí cho về chủ công, mẹ nó chủ công cái con
c… , đ... mẹ cho bọn D bộ chúng nó xuống đây mà đánh nhau.
Tôi và mấy đứa dìu nhau vặt vẹo chừng một giờ về đến kiềng chốt c7. Người đón
tôi là một B trưởng mặc quần đùi rách tươm. Mặt mũi rất bẩn, tóc queo queo từng
túm như rễ bèo tây. Hàng tháng không tắm nên tóc tai bết lại như thế. Anh ấy bò
dưới hầm lên. Anh tên Ngô Văn Trăng hơn tôi hai tuổi. Nửa muốn cười nửa muốn
thân thiện nhưng thấy tôi dặt dẹo quá đâm ngán nên nụ cười B trưởng hé ra một nửa
rồi tắt. Sốt à? anh ấy hỏi. Vâng em sốt vài ngày nay. Ăn được không? Dạ không
muốn ăn. Phải cố mà ăn không là chết, chết chỉ có thiệt cha mẹ mình mày ạ. Mày
vào hầm nằm đi. Nói rồi anh ấy bò đi luôn. Một thằng lính cũ cũng bé quắt ngồi
ôm khẩu B40 ở nóc hầm lầu bầu, có đ… gì ăn mà bảo cố ăn...
Làm quen với chỉ huy ngần ấy câu thôi thế mà tôi cứ hình dung ra họ sẽ hỏi lí
tưởng của đồng chí là gì? đồng chí có suy nghĩ gì khi về đây?. Chả ai hỏi
thế cả. Mấy anh lính cũ đưa cho tôi nắm lá chua bảo: ăn đi, càng chua càng đỡ sốt
rồi họ bò đi ra vị trí điểm chốt của họ. Tôi không ngờ rằng ngày đầu tiên về
đơn vị lại là ngày tôi lên chốt mà lại lên chốt lúc tôi sốt cao. Tôi lơ mơ như
thế cho đến lúc thấy bom nổ. Tôi chồm dậy, mặt trời xuống núi rồi nghe lính cũ
bảo T28 ném bom ngoài đường 19. Đêm ấy tôi nằm dưới hầm với mấy người lính cũ
toàn quần đùi rách hôi rình rình. Tôi bỗng nhớ thằng Chung Ninh bình nó về C5 với
thằng Lương Lợi bây giờ ở đâu? mấy thằng cùng trường ở đâu? đêm đầu tiên ở tiền
tiêu nghe não nề côn trùng và thi thoảng tiếng pháo bay qua rấm rứt.
Hôm sau tôi đỡ sốt. Cuộc ra mắt của tôi là một trận bò ra rừng tìm lá chua và một
cây chuối non. Tôi thái đọt chuối, thái lá chua trộn với mì chính và muối thành
món nộm rất ngon. Lính trên chốt đói nên háo lắm ai cũng khen. Anh Trăng bảo
tao còn nhúm thuốc Miên thằng Luân mới vào có giấy pơ luya bỏ ra để hút. Cả mấy
anh em sướng sáng mắt. Tôi lật cuốn sổ nhật kí lấy ra lá thư ông già gửi trước
khi đi B. Tôi bảo em chỉ có lá thư này là pơ luya. Anh Trăng bảo thư ai? đọc
xem nào! Thư nào cũng hút tất. Anh Trăng nhỏm đầu bảo thằng Đấu cảnh giới trên
miệng hầm rồi giục đọc đi đọc đi. Tôi đọc, vừa đọc vừa khóc. Bố tôi là thầy
giáo nên cụ viết rất tình cảm và khúc triết… tôi đọc đến câu... ”Luân ơi thầy
chỉ mong rồi đến một ngày con lại trở về đi học ở trường đại học Cơ Điện mà thầy
mẹ mong ước con sẽ làm kĩ sư và tiếng hát con lại vang lên vui ấm mái nhà
ta...”. Anh Trăng quát to lên: Thôi không đọc nữa, lá thư này không được
xé, phải giữ. Mấy thằng trong hầm cũng khóc. Anh Trăng lại quát, khóc cái đ... gì.
Thư nào chả là của chung. Chỉ giấy báo tử mới là của riêng. Sống mỗi người mỗi
nhà chết mỗi người mỗi mồ. Đ… mẹ, lính bọn mình sống mấy thằng một hầm chết mới
mỗi thằng mỗi mồ. Mà chưa chắc đã được mỗi thằng mỗi mồ.
Đêm ấy, đầu mùa mưa mà trời chiến
trường không mưa. Ngoài cửa hầm nhìn rõ cả những vì sao long lanh. Tiếng chim
đêm khuya não nuột. Các nhà văn bảo đó là tiếng chim từ qui. Tôi không biết từ
qui là gì cả chỉ nghe... trót thì bóp đến đau lòng.
Lá thư của bố tôi không được xé.
Tôi giữ mãi tới ngày giải phóng trở về. Bố tôi nghẹn ngào lau nước mắt khi thấy
lại tám trang pơ luya đã viết cho tôi trước ngày tôi lên đường đi vào Nam. Tờ
pơ luya nay chuyển ngả màu như sáp mà nét chữ của bố vẫn tươi nguyên.
Anh Trăng đi học sĩ quan Cầu Lầy (quân chính mặt trận) trên Kon
Tum vào năm 74. Tôi theo đơn vị đi đến hết cuộc chiến tranh giải phóng. Chả bao
giờ gặp anh ấy nữa. Nay về già nhớ anh. Cái con người mới học hết lớp 7 ngày
xưa mà nói câu… Lính bọn mình sống mấy thằng một hầm chết mới mỗi thằng một mồ.
Thì ra, như tôi đây học cao hơn anh cũng đâu hiểu nổi anh, nghĩ được như lời
người lính ít học trong lửa đạn chiến trường. Tôi chỉ nhớ anh Là Ngô Văn Trăng.
Quê Tiền Hải Thái Bình. Anh Trăng ơi !
Tháng 3/2013
Tháng 3/2013
No comments:
Post a Comment