Đúng 40 năm. Hôm nay, Trung tướng Khuất Duy Tiến đã ngoài tám mươi tuổi
lại dẫn đầu những người lính Sư đoàn 320A hành quân vào Tây Nguyên.
Trời miền
Bắc đầu đông, se lạnh. Đội hình hành quân náo nức, rộn ràng, mà sao vẫn rưng
rưng vừa vui vừa buồn. Ngày 7/12/1971 khi rời Kỳ Anh, Hà Tĩnh cả sư đoàn 320
nườm nượp tuổi xuân tiến về phía bom đạn mang khí thế một đơn vị vừa đại thắng
Đường 9 - Nam Lào. Còn hôm nay đội hình chỉ hơn một trăm người lính ngày ấy đầu
bạc phơ, nhiều bước chân lập bập, giọng nói khẽ khàng. Lính “trẻ” tuổi sáu mươi
dắt tay lính “già” tuổi bẩy tám mươi lên xe. Tiếng gọi đồng chí nay chỉ còn lõm
bõm, cả đoàn quân gọi nhau bằng ông, bằng cụ. Nhưng với những người chỉ huy năm
xưa họ vẫn một điều “thủ trưởng’’ hai điều “báo cáo thủ trưởng”. Chiến
tranh lùi xa gần bốn mươi năm nhưng kỉ luật quân đội cách mạng đã ngấm vào máu
những người chiến binh quả cảm năm nào, dù bây giờ họ là dân thường, quen với
cuốc với cầy. Trung tướng Khuất Duy Tiến lại một lần trong đời -sau mấy chục
năm- phát lệnh hành quân. Mắt ông ngân ngấn nước, ông nhìn những người
lính đã từng cùng ông đi xuyên qua từ Quảng Trị Mậu Thân, đến Tây Nguyên “mùa
hè đỏ lửa”, qua chiến dịch HCM, cuốn như cơn lốc sang chiến tranh Biên giới Tây
nam, lên biên giới phía Bắc. Trước mắt ông là những lão nông, những cán bộ nghỉ
hưu ở nhiều tỉnh thành cơm nắm đồ đoàn về đây cùng ông hành quân quay lại chiến
trường xưa. Nơi chúng tôi đến, là nơi một thời tiếng súng, tiếng bom và máu
lửa. Bây giờ đó vẫn là nơi chúng tôi đi đến, mảnh đất chiến địa cũ năm xưa thế
nào, chúng tôi chưa hình dung ra. Chúng tôi chỉ biết rằng ở đó có những đồng
đội của mình đang chờ, những hương hồn chết trẻ đang nôn nao đón những người
một thời đã cùng nhau chia đạn, sẻ bom cùng nhau bẻ miếng cơm ngấm nước mưa
dưới chiến hào sặc mùi khói súng. Ở đó những căn hầm mục lá, những chiến hào,
khe suối có bước chân trai trai trẻ của mình, ở đó là nơi chúng tôi để lại tuổi
xuân, để lại một phần xương máu và từ nơi đó chúng tôi đã trưởng thành.
Thủ đô lùi lại phía sau, vùn vụt loang loáng những chung cư ngất cao xanh
đỏ, những dòng người và xe cộ nhoang nhoáng hối hả, bình yên. Đoàn quân lặng
im, bồi hồi. Chúng tôi đang đi tìm tuổi trẻ của chúng tôi, chúng tôi đang trở
lại chính mình, chúng tôi đang tìm về nơi để soi mình vào đó để thấy mình có
xứng đáng là mình nữa hay không, có xứng đáng với hương hồn đồng đội hi sinh
ngày xưa ấy. Cái ngày xa đã bốn mươi năm. Trước lúc hành quân, trung tướng
Khuất Duy Tiến dẫn đầu ban liên lạc bạn chiến đấu sư đoàn Đồng Bằng đến thắp
hương cho người anh cả đại đoàn là cố Đại tướng Văn Tiến Dũng. Trung tướng lau
nước mắt mà thưa: Báo cáo anh, hôm nay tôi đưa anh em cựu chiến binh của sư
đoàn về thăm lại chiến trường Tây Nguyên, Quảng Trị, để thắp hương cho những
đồng đội của sư đoàn… kính cáo anh… “Nhìn giọt nước mắt của người tướng
già ngoài tám mươi tuổi chúng tôi xao xuyến nghẹn ngào. Kim chỉ có đầu, người
Việt nam xưa nay vẫn thế.
Chúng tôi bồi hồi, nhớ ngày xuất
quân tròn bốn mươi năm trước. Khẩu hiệu “Đi sâu, đi lâu, đi đến ngày toàn
thắng” mà ngày ấy mỗi chiến sĩ sư đoàn Đồng Bằng đều tự nhủ với lương tâm mình.
Cuộc ra quân ngày ấy còn có sư đoàn trưởng Kim Tuấn. Bây giờ ông đã yên nghỉ
trong Nghĩa trang Mai Dịch. Hôm nay, không có ba lô, không có súng đạn mà sao
chúng tôi thấy đồ đạc nặng thế. Bó nhang mang đi để thắp cho đồng đội đã gánh
nặng cả mấy chục năm trời. Nhành hoa mang từ Thủ đô, màu hoa chắt lọc, vắt kiệt
mấy chục mùa nắng để bây giờ đồng đội mang tặng nhau. Rất nhiều người lính
trong chuyến đi này mang theo mảnh giấy ghi tên tuổi, ngày hi sinh, hòm thư,
đơn vị của bạn mình ngày xưa những mong tìm thấy nơi đồng đội mình còn an nghỉ
đâu đó ở vùng đất cao nguyên ấy. Trích ngang của người lính chúng tôi cả khi
sống và khi đã chết đơn sơ nhẹ nhàng như thế. Chỉ mảnh giấy có vài dòng chữ
thôi là tuổi trẻ của chúng tôi được cách mạng biên chế vào cuộc kháng chiến
thần kì của dân tộc. Chỉ vài dòng chữ viết tay là chúng tôi có thể hiến dâng cả
tuổi xuân của mình. Sau khoảng thời gian lắng đọng xót xa chợt cả xe cất tiếng
hát, lại hát những bài ca ra trận năm nào, chúng tôi hát trong nước mắt, trong tự
hào, trong nỗi niềm hồi tưởng của đời người mà đâu phải ai cũng có. Xe lại qua
đèo Ngang. Cái buổi sáng 7/12/1971 ấy, khi đoàn quân lên đèo ngồi trên xe chúng
tôi ngoái nhìn lại phía sau, ngoái nhìn về miền Bắc mà tràn trề nỗi mong ngày
trở lại. Tạm biệt những Kì Tân, Kì Tây, Kì Thượng… Tạm biệt miền Bắc thân yêu.
Chúng tôi sẽ trở về, trở về trong chiến thắng. Hôm nay qua đèo Ngang lại
bỗng nhớ Sư đoàn trưởng Kim Tuấn, người chỉ huy cuộc hành quân tháng 12 năm
1971, lại nhớ những thủ trưởng các trung đoàn dạn dầy trận mạc, nhớ hàng ngàn
động đội ra đi hôm ấy không về. Bốn mươi năm qua họ không thêm một tuổi nào
trên mảnh đất cao nguyên.
Phải mất 4 năm sau, lác đác
trong số những người ra đi từ Kỳ Anh hôm ấy mới trở về. Và trở về đâu phải là
nguyên vẹn.
Chúng tôi qua sông Gianh rồi Sông Son . Con sông ngày ấy chúng tôi từng
một lần vượt qua ở chót làng Cự Nẫm. Bao nhiêu người bạn không về để được một
lần vục mặt xuống làn nước mát thấm ướt câu hò nữ thanh niên xung phong. Chúng
tôi bồi hồi khi xe qua cầu Hiền Lương. Trong số chúng tôi ngồi đây hầu như mới
qua Hiền Lương một lần. Một lần là của ngày trở về từ miền Nam sau giải phóng,
cây cầu cũ kĩ ngày ấy phải mấy chục năm chiến đấu mới được đi qua. Bây giờ Hiền
Lương đứng đó, nườm nượp xe ra xe vào bình thản. Nhưng với những người lính
chiến chúng tôi thì không bình thản chút nào. Nó vẫn nôn nao lên tiếng, hừng
hực bộn bề kỉ niệm.
Dốc Miếu kia, nay không còn khúc
quanh đỏ đất, trắng khói của pháo của bom. Con dốc tử thần nay đẹp
rưng rưng những rừng cao su và sừng sững tượng đài trên điểm cao một thời thắng
Mĩ. Còn đó những cái tên Cồn Tiên, Dốc Miếu, Lâm Xuân, Quán Ngang… Mai Xá thị
gắn liền với E48, E52 anh hùng của chúng tôi.
Chúng tôi lại về đây ơi các dũng sĩ E64. Thủ trưởng Khuất Duy Tiến cũng về đây,
tìm về chốt ngã tư Sòng, tìm về Kim Đâu, Phú Hậu, ngã ba Cam Lộ, Thiện Xuân …
Tất cả chỉ thấy một màu xanh ngan ngát, những nhà cửa phố thị và những khu công
nghiệp đang lên. Các anh ở đâu chúng tôi tìm chả thấy? Những dũng sĩ Bùi Đức
Hậu, Trần Thành, những cán bộ mưu trí tiểu đoàn trưởng Trần ngọc Chung , tiểu
đoàn phó Trần công Doanh, … bây giờ nằm đâu? Chúng tôi đang đi trên màu
xanh ngút ngát mọc lên từ những máu xương của các anh, chúng tôi đang đi trên
nhịp đập con tim tuổi trẻ của các anh, chúng tôi đã già còn các anh vẫn trẻ.
Các anh vẫn xếp hàng những tấm bia nghĩa trang hâm hập nóng, Quảng Trị ơi.
Đêm nay, chúng tôi nghỉ lại Quảng Trị. Nhưng ai mà ngủ được. Thành Cổ uy nghiêm
nghẹn ngào cho mỗi bình minh và rưng rức cho mỗi hoàng hôn.
Đêm nay sau mấy chục năm vẫn thế. Quảng Trị vẫn thao thức. Mấy chục năm nay
người Quảng Trị vẫn nguyên cái cảm giác khi đi gần đến Thành Cổ là ai nấy đều
nói nhẹ nhàng hơn, xe chạy chậm hơn và nhìn nhau cũng trìu mến hơn.
Mấy chục năm nay, bờ sông Thạch Hãn ven Thành Cổ vẫn không ngừng nghỉ bước chân
hành hương. Họ về đây lắng đọng một chút thôi để muốn mình tốt đẹp hơn, để thấy
đời còn nhiều khát khao trả nợ. Sự khát khao trả nợ là phúc lộc để lại cho dân
tộc mình. Đôi bờ sông trong hoàng hôn dàn dạt những chân nhang đỏ hồng sắc lửa,
những chân nhang như trăm ngàn mũi chông lửa hướng lên trời, chỉ có khói nhang
là xòa xanh mặt nước, khói nhang ngấm vào từng con sóng mịn màng của dòng sông,
của hương đồng cây cỏ.
Làm sao chúng tôi ngủ được, khi đêm nay lại nghe thấy tiếng còi tu tu của một
con tàu lớn vừa cặp cảng Cửa Việt. Nơi ấy sư đoàn tôi đã để lại bao thân xác
chiến sĩ một thời, một thời các anh làm nên chiến công - Chiến công Mậu Thân
của trung đoàn 48, trung đoàn 52. Trong số những người lính già đi hôm nay, có
người cứ loay hoay bảo tôi, bao giờ gần tới cửa Việt chú nhắc anh với nhé. Xe
tới ngã ba lối rẽ xuống Cảng Cửa Việt. Anh lập bập vái qua cửa kính xe ô tô.
Khuôn mặt sạm sụa một lão nông vất vả của anh méo đi. Anh ấy khóc, gục đầu lên
thành xe. Mái tóc bạc phơ của người nông dân già Sơn Tây rung lên nâng nấc.
Tuổi trẻ của anh và máu của anh gửi lại nơi ấy. Anh không khóc vì thiệt thòi
của mình, anh khóc cho bao người bạn cùng đại đội anh xương cốt còn đâu
trong cát trắng. Khóc vì nhìn thấy mảnh đất chiến địa năm xưa nay đã mọc lên
những phố thị, làng quê tươi phơi phới.
....... Ngày hôm sau xe chúng tôi qua Quảng Nam, Quảng Ngãi. Chúng tôi dõi
trong màu nắng về những cánh rừng phía tây, nơi ấy có những Nông Sơn, Tiên
Phước, có Ba Tơ, Thượng Đức mà nhớ tới các đồng đội ở trung đoàn 52. Chúng tôi
nhớ ngày thủ trưởng Hồ Hải Nam dẫn trung đoàn đi về khu 5. Trong khói lửa chiến
dịch Kon Tum năm 72 vừa tạm lắng, vừa chôn cất bạn bè ở 1049 đã vội vã đi làm
nhiệm vụ mới, vội vã chia tay với sư đoàn để đi về một vùng đất mới đầy khó
khăn, ai cũng bịn rịn bồi hồi. Trung đoàn 52 đã làm nên chiến công nổi tiếng Ba
Tơ, rồi Thượng Đức.. . Ngày trở về với đội hình sư đoàn năm 1975 trung đoàn đã
gửi lại mảnh đất khu năm này hàng trăm ngôi mộ chiến sĩ của mình. Xin gửi vào
màu nắng màu gió khu 5 lời tâm sự nhớ thương của chúng tôi tới các anh.
Đội hình hành quân lần này của
chúng tôi thỉnh thoảng lại phải dừng lại để bổ sung quân số. Đó là những lão
chiến sĩ nhập đội ngũ ngang đường. Từ Thái Nguyên Tuyên Quang, Sơn Tây, Phú Thọ
họ về, mang theo cơm nắm cháu con gói cho, với bọc thuốc huyết áp, thuốc khớp
…các bà vợ già chằng đụp để lên đường cùng đội ngũ. Qua Thanh Hóa, Nghệ An đội
hình càng đông hơn. Và lại hệt như ngày xưa trên đường hành quân có đủ tiếng
nói cười khu Ba khu Bốn, miền xuôi miền ngược. Những người lính ra về với núi
rừng Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên nay lại đi trở về phương Nam mà lệ nhòa
khóe mắt. Cái bi-đông lính thủơ nào nay là bình rượu ngô vợ chuẩn bị cho chồng
chuyến đi xa. Bộ quân phục còn thơm mùi băng phiến, bàn tay chai nứt nẻ ruộng
vườn. Phía trước là bao hương hồn đồng đội chờ chúng tôi. Ai mà chẳng rưng rưng
thổn thức.
Đi trên đường số 1. Qua bao nhiêu thành phố làng mạc, có lúc xe chạy trên bờ
biển ngời ngợi màu xanh ngó lên Trường Sơn mờ xa mà tuổi trẻ chúng tôi băng qua
với bàn chân tơ tướp ngày xa xưa. Con đường ấy chẳng thể nào quay lại, chẳng
thể nào tìm lại được những đồng đội đã gửi thân xác trong hang núi hay vách đá
suối sâu. Chúng tôi đang đi dọc đất nước, đi dọc Trường Sơn, đi ngược về phía
thời trai trẻ của mình.
Đêm thứ hai ngủ ở Tuy Hòa.
Với tôi, Tuy Hòa là một đêm lộng gió mà lần đầu tiên tôi được ngủ trong vườn.
Đêm 2/4/1975 ấy tôi đã từng hít gió biển và mùi tanh ngái của đồng lúa. Đêm ấy
chúng tôi chôn cất xong bao nhiêu đồng đội ở chân núi Chóp Chài, ở chân đèo Cả.
Những dũng sĩ đuổi địch nhào ra cửa bể Đông Tác, những dũng sĩ làm nên chiến
công đánh tan hoàn toàn quân đoàn 2 của địch chạy nhào ra biển, bắt sống chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phú Yên. Các anh yên nghỉ ở đây
trên bờ biển này, các anh mãi mãi nằm nghe lời ru của biển của sóng lúa Tuy Hòa
thân thương.
Ngày được ra về sau chiến tranh chỉ thoáng qua nơi này lúc chạng vạng tối. Bây
giờ Tuy Hòa là một thành phố biển du lịch. Tôi miên man ngồi ngắm biển dưới
hàng dừa hứng gió ngạt ngào. Chợt thấy thương người vợ già ở nhà một nắng hai
sương không có may mắn được đi như tôi. Các đồng đội tôi cũng thế, ngoài 60
tuổi rồi nhưng dừng chân ở đâu là loay hoay đi tìm mua một thứ gì đó về tặng vợ
ở nhà quê. Càng về già người lính chúng tôi đang cố gắng bù lại một khoảng đời
trai trẻ chiều chuộng yêu thương mà mình thiếu thốn.
Sáng hôm sau xe ngược đường 25 lên Cheo Reo Phú Bổn. Qua Củng Sơn Phú túc, vượt
đèo Tu Na về thung lũng Cheo Reo... Con đường số 7 năm xưa đuổi địch đâu
còn ghềnh thác mà đã phẳng lì trải nhựa êm ru. Ai cũng xốn xang nhoài ra
cửa muốn ngó tìm những dáng hình thân quen một thủa. Từ lúc xe vào huyện Sơn
Hòa, cả xe xao xuyến rồi lặng im. Đây, con đường kẻ thù hãi hùng rút chạy tháng
3/ 1975. Đây, con đường mà người lính chúng tôi vừa đánh địch vừa giúp dân qua
cơn hoạn nạn của cơn lũ di tản. Xe chạy dọc bờ sông Ba nước đỏ ngày nào, con
sông nhấn chìm bao xe tăng và vũ khí hiện đại của kẻ địch bây giờ hiền hòa làm
sao. Chúng tôi đi qua những cánh rừng ngút ngát là mía, là keo, đi qua nương
rẫy chập chùng, đi qua những nhà máy mới mọc lên, nơi mà ngày xưa đuổi địch chỉ
là rừng hoang với con đường heo vắng. Vượt đèo Tu Na chúng tôi nhìn thấy ngã ba
hai con sông hợp lưu nên dòng sông Ba. Đây rồi hai con sông Adun và sông Pa
chập vào nhau để làm thành thung lũng Cheo reo. Trời bỗng rộng ra với đồng lúa
Adun Hạ tít tắp, nhà cửa phố xá tươi ngời ngợi. Ở cái thị xã này, nơi trận đánh
lịch sử của sư đoàn chúng tôi đập tan đội hình mấy chục ngàn quân địch để rồi
tạo nên đòn quyết định thứ ba làm xuất hiện thời cơ giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Nhưng lạ quá không còn thấy đàn ông đóng khố cởi trần, không thấy thiếu nữ
đeo gùi đi nương. Tiếng cười nói của trai gái áo quần xanh đỏ lanh lảnh rơi
xuống ven rẫy bắp vừa thu hoạch thơm một vị thơm lâng lâng. Một đàn bò ăn nhởn
nhơ lưng đèo bên cô chủ xinh tươi đang nhí nhoáy nhắn tin trên điện thoại di
động.
Mười giờ sáng, nắng vàng ươm trên cây hai cây cầu Sông Bờ và
cầu Cây Sung. Chúng tôi thật cảm động khi gặp sư trưởng sư đoàn 320 Nguyễn
Trung Hán đứng đón đoàn ở đầu cầu Cây Sung. Những cựu chiến binh trên xe aò
xuống ôm lấy người chỉ huy trẻ của sư đoàn. Nước mắt rưng rưng, đây rồi người
nhà đây rồi. Các CCB trung đoàn 64 ồ lên, trận địa mình đây rồi. Anh hùng
Nguyễn Vi Hợi đứng lặng trong bãi rừng thưa lúp xúp ở cầu Sông Bờ, anh nhìn ra
xa xăm, 37 năm rồi anh trở về đây, nhớ cái ngày 18/3/1975 hàng chục xe tăng đã
bị đại đội anh thui cháy. Biển lửa Cheo Reo là chứng tích một trận truy đánh
hoàn hảo của sư đoàn. Nhưng cũng ở đây trong cái ngày đập tan cuộc co cụm của
quân đoàn 2 ngụy hơn một trăm chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại. Từ trên xe, vợ
chồng thiếu tướng Bùi Huy Bổng, vợ chồng trung tướng Khuất Duy Tiến bước xuống.
Những người chỉ huy ngoài 80 tuổi tay rừng rực bó hương trầm dẫn đầu hơn một
trăm người lính già tiến lên đài tưởng niệm. Chói chang nắng, ngạt ngào hương
thơm và hoa mang từ Hà nội. Chúng tôi cúi đầu nghĩ về đồng đội. Trong lặng
im thổn thức bỗng một con chim Kơ-Tia bay qua buông tiếng kêu như tiếng vọng từ
mấy chục năm trở về.
Tại thung lũng Cheo Reo này, hôm nay Thị ủy, UBND, MTTQ cùng hội CCB đã long
trọng tổ chức lễ đón đoàn. Trang trọng là thế, uy nghiêm là thế mà nước mắt cứ
nhòa đi. Trung tướng Khuất Duy Tiến nghẹn ngào nhắc tới hơn một trăm chiến sĩ
nằm lại nơi đây.
Có chiến thắng nào mà không xây nên từ hi sinh mất mát? Có hạnh phúc nào không
đổi bằng sự khổ đau. Sự tích anh hùng là của lịch sử. Chúng tôi, những người
lính thay mặt cho lịch sử làm nên chiến công. Chiến công là chiến công của lịch
sử dân tộc. Chúng tôi tự hào vì được lịch sử đất nước chọn lựa đứng vào đội
hình ngày ấy.
Tạm biệt thung lũng Ajun Pa xinh
đẹp, đoàn chúng tôi vượt đèo Chư Xê về Plây-cu. Còn đây, con đèo đẹp như trong
mơ, xanh ngút ngát hồ tiêu và cà phê. Nơi đây tháng 3/1975 trung đoàn 48 đã kịp
hành quân chặn đánh kẻ thù. Từ hướng này trung đoàn 48 đã áp vào Cheo reo làm
đà cho trung đoàn 64 tiêu diệt địch. Đứng trên đỉnh đèo nhìn về Cheo Reo một
màu xanh như khói, những vạt hoa cúc quì chạy miên man xuống chân đồi. Trận địa
năm xưa bây giờ như một bức tranh, để chúng tôi mang theo trong lòng về quê
hương miền Bắc.
Chiều Plây-cu nắng ươm heo heo
trên từng phố núi. Thành phố thanh bình là thế mà mấy năm chiến đấu ước mơ tiến
vào thành phố vẫn không thành. Phía xa kia, những ngọn Chư-groong-rang,
Chư-gara sầm sẫm. Nghĩa trang Plây-cu nhìn quay ra phía ngọn Hàm Rồng. Nghi
ngút khói hương, ầng ậng nước mắt của tướng lĩnh của những người lính già đi dọc
hàng quân xếp hàng từ mấy chục năm nay. Chiều nắng, vòng hoa của đoàn cứ rưng
rưng vàng, bia mộ nóng hầm hập cứ như đâu đây đồng đội chúng tôi vừa qua cơn
sốt. Sống khôn thác thiêng xin các anh chứng giám. Rằng, chúng tôi đã về đây
dẫu dù có muộn. Các anh thì trẻ, chúng tôi thì già. Đồng đội ơi!
Chiều nay, chúng tôi xếp hàng vào nhà
tưởng niệm sư đoàn. Bốn bức tường ghi tên mười bốn ngàn liệt sĩ của sư đoàn
tôi. Đồng đội ơi, hãy đội đất trở về đi, để sư đoàn ta làm thành mấy sư đoàn.
Hãy xếp hàng cùng chúng tôi, để ngắm nhìn tổ quốc mình bây giờ tươi đẹp
hùng vĩ đổi thay. Đồng đội của các anh chắt trong nghĩa tình tâm can đúc nên
quả chuông để hôm nay mang về đây dâng lên tượng đài. Trong thinh không xin gửi
tiếng chuông nối miền tâm thức của chúng tôi với linh hồn đồng đội. Tiếng
chuông đưa chúng tôi về cõi lặng ở đó không có sự bon chen, đen bạc đời thường,
tiếng chuông đưa chúng tôi về đứng trước các anh để soi lòng mình cho rõ, để
ngộ ra rằng mình có xứng đáng với danh hiệu người lính Đại đoàn Đồng Bằng hay
không?
Chiều trước khi rời Plây-cu, đoàn chúng tôi đi dọc đường 19 kéo dài. 40 km
thôi, thế mà suốt ba năm ròng Sư đoàn lăn lộn đánh địch giành dân, nhịn đói
nhịn khát mà chiến đấu, mà hứng chịu pháo kích Hàm Rồng, pháo Thanh An, pháo Mĩ
Thạch và những trận bom của máy bay địch từ sân bay Cù Hanh. Chúng tôi sống
kiên cường và làm nên chiến công Đức Cơ, Thánh Giáo, Chi Bồ, Chư Nghé, Lệ Ngọc,
đồi 30, đồn Tầm, chốt Mĩ … vẫn sừng sững kia, ngọn Chư-rông-rang, chư-gara,
làng Dịt. Chúng tôi đi trong bạt ngàn rừng hoa cúc quì, trong bạt ngàn rừng cà
phê cao su hồ tiêu, những cứ điểm năm xưa bây giờ là phố thị là nhà hàng là
những mái ngói trẻ trung phơi phới. Chúng tôi cứ nghĩ mỗi bông hoa Cúc Quì kia
là một linh hồn còn trẻ. Vì thế hoa muôn đời rưng rưng vàng ngả nghiêng trong
gió. Hoa nhiều quá và gió cao nguyên nhiều quá. Trong màu xanh rưng rức kia có
máu của anh em sư đoàn chúng tôi, hương hồn liệt sĩ sư đoàn đã hóa thành hoa
thành trái thành niềm tin hi vọng của cao nguyên. Chúng tôi nhớ tới các đồng
đội ở những đơn vị bạn đã gắn bó sẻ chia hiểm nguy với sư đoàn ngày ấy. Chúng
tôi nhớ tiểu đoàn 631, nhớ trung đoàn pháo phòng không 593, nhớ tiểu đoàn đặc
công 198 nhớ trung đoàn 40 trung đoàn 675… các đồng đội ở huyện 4, huyện 5 Gia
Lai gian khổ. Chúng tôi không quên đội điều trị 17, mãi nhớ những cô gái
rừng xoài Đức Cơ ngày xưa. Chúng tôi ra về mà bần thần không muốn rời xa cán bộ
chiến sĩ sư đoàn. Thật xúc động khi gặp đội hình các cán bộ cấp trung đoàn đứng
chào nghiêm trang khi đoàn đi tới đại bản doanh Sư đoàn. Chúng tôi lại gặp đây
Thăng Long, đây Quyết Thắng, đây Đông Biên (Tây tiến) đây Kinh Thanh, những cái
tên hào sảng một đời trận mạc. Chúng tôi cảm động khi nhìn Sư đoàn trưởng
Hán, phó Chính ủy Nguyễn Kiên Lợi và toàn bộ ban chỉ huy nhiều ngày vất vả bận
rộn tổ chức đón đoàn. Ai cũng rưng rưng nước mắt khi thấy Sư đoàn trưởng
Hán vừa khóc vừa đỡ tay thiếu tướng Bùi Huy Bổng lập bập xuống xe. Chúng tôi về
với ngôi nhà của mình trong tình yêu sâu nặng mang danh hiệu Đại Đoàn Đồng
bằng.
Mai chúng tôi về, xin gửi niềm hi vọng nơi các anh, những cán bộ chiến sĩ Sư
đoàn đang gánh nhiệm vụ gian khổ mà vinh quang trên nóc nhà của tổ quốc. Chúng
tôi, những người lính già trân trọng gửi niềm tin vào truyền thống Sư đoàn.
Tạm biệt cao nguyên, tạm biệt nơi một thời máu chúng
tôi đã đổ, tạm biệt nơi tuổi trẻ đời mình, chúng tôi ngược Kon Tum về miền Bắc.
Chúng tôi lại qua dòng Đakpla, qua Tân Cảnh, Đăk Tô. Chúng tôi kính cẩn nhớ tới
đồng đội sư đoàn 10 đang nằm trên mảnh đất này. Ngoái nhìn phía tây Đăk Tô, vẫn
nhận ra ngọn 1015 xám bạc, vẫn nhận ra ngọn 1049 lở lói. Tôi ngước nhìn sang
trung tướng Khuất Duy Tiến. Ông già lặng im. Khi xe chạy vào đoạn để nhìn
rõ ngọn 1015 ông ngó sang trái, ông thẫn thờ, giọt nước mắt người tướng già ứa
ra. Ông đang nhớ cái ngày 12, 13 tháng tư năm 1972. Gần ba trăm dũng sĩ của
trung đoàn 64 mãi mãi không về. Cái tên đồi Charlie ấy bây giờ có con đường nào
vắt qua chưa ?
Chúng tôi chạy dọc con sông Pô Kô, chúng tôi chạy dọc kí ức máu
lửa của đời mình. Chúng tôi đã tìm về nơi trong sạch nhất của tâm hồn mình.
Chuyến đi này là một lần thắp sáng lại niềm tin trong chúng tôi, chuyến đi này
chiêm nghiệm cho một cuộc đời, cuộc đời người lính. Xe lên đèo Lò Xo. Hơn một
trăm lính già lặng lẽ bồi hồi nghe lời bài hát của một CCB trong đoàn…
“ thắp sáng một niềm tin tương lai , thắp sáng một niềm tin không phai . Đồng
Bằng ơi! Mãi gọi tên Sư đoàn …”
Pờ lây cu 6/12
Hà nội 12/12/2011
No comments:
Post a Comment