Wednesday, April 1, 2015

Nhật kí tháng Tư ( phần 1 )

Nhật kí tháng Tư ( trích)
2/4/75


Ở lại đây. Giải quyết nốt tù binh. Ăn uống sướng.Ở vui. 

Chiều có lệnh hành quân. Chân lại đau. Đi tới 11 giờ đêm tới Phú thứ. Lạ ! Không hiểu sao không vào thị xã. 
Xác địch chết dọc đường thối inh.
Ở một nhà dân khá giàu. Trưa có lệnh đi lại hoãn. 
Trời mưa. Cơn mưa rào đầu tiên trong năm nay. Một mối lo cho mình, không ni lông tăng bạt. Ăn uống vẫn sung túc lắm.
- 2 giờ chiều trời vẫn mưa. Hành quân thật. Đi dọc đường 5. Mưa tầm tã. Ướt hết cả. 8 giờ tối đến Đức Thành. C7 vẫn chưa lên 2 trinh sát và anh Tuần ở lại chờ.
Rét quá. Chui vào chuồng vịt mắc võng ngủ. Hôi, thối,dột ướt. Hết đêm vẫn chưa thấy C7. Cử Nết quay lại, mình vào nhà dân nấu cơm. 
8 giờ sáng C7 lên. Lại hành quân.
Lần đầu tiên ngủ chuồng vịt.
.......

Nhật kí tôi viết ở chiến trường thường rất ngắn. Xem lại thấy câu nào cũng ngắn và liên tục nhiều dấu chấm. Không có thời gian mà hoa lá chim bướm, lính chỉ viết vậy mà sau nó ngàn vạn điều muốn nói.


Bây giờ muốn viết như thế không viết nổi. Muốn có niềm xúc động gai góc như thế không chất kích thích nào gây men nổi. Đọc 163 chữ trong tấm sổ bé bằng bao thuốc lá này( các bạn thấy nó to là tôi đã chụp ảnh và Rum lên nhiều rồi đấy) mà hình dung ra cả một đoàn quân còng rạp đi trong mưa, đi ngược con mương đầy xác người và một đêm hôi thối ngủ trong lều vịt của một người canh vịt giữa đồng Tuy An Phú Yên. Một cuộc hành quân ngược lại chiến trận bao nhiêu nỗi niềm xuy nghĩ về chết chóc bi thương. bao nhiêu gian nan khổ ải của người lính chúng tôi. Các bạn có thấy tôi hay nhắc nhiều đến ăn sướng không? Đừng cười tôi vì ba bốn năm nay chúng tôi đói lắm và khổ vô cùng . Khổ thế mà vẫn hi vọng ngày chiến thắng để trở về.
Chỉ một câu ngắn tôi hỏi sao không vào thị xã lúc ấy để về sau này hiểu ra là chúng tôi sẽ quay trở lại Tây nguyên để đi theo con đường 14 về Phước Long Lộc ninh đánh trận cuối cùng.


Người tôi nhắc đến trong một trang nhật kí ấy là anh Tuần tiểu đoàn trưởng. Anh đã hi sinh khi làm trung đoàn trưởng E52 ở Căm pu chia. Người nữa là Nết răng vàng chiến sĩ A trinh sát của tôi, khi tôi ra bắc là B trưởng cuối năm 1975. Bây giờ 2 người ấy tôi đã xa tôi biền biệt. NHật kí tháng tư đưa tôi trở về với tuổi 23. Ngày ấy tôi đâu có nghĩ, bốn mươi năm sau tôi ngồi đọc những dòng này?
Đây là cái lô cốt duy nhất xót lại ở đầu cầu Bàn Thạch mà ngày đêm 30/3 chúng tôi bò qua cách nó không xa.

Ảnh 2. Vết đạng bắn của trận đia chúng tôi vào đoàn xe trên đường số 1 chân đèo Cả ( chỗ hai anh Liệu và Bình hi sinh) còn ăn vào những tảng đá ven đường -Tôi đã viết chuyện này trong bài Tứ Râu


No comments:

Post a Comment