Thú thật, trước khi vào Nam chiến đấu tôi chưa hề biết hoa
giấy. có thể quê tôi không có và những vùng miền Bắc khác tôi chưa biết chăng?
Nhưng quả thật chỉ khi về đánh Củ Chi tôi mới nhìn thấy hoa giấy.
Ngày 19/4/1975, chúng tôi từ Chơn Thành hành quân rồi vượt sông
Sài Gòn lúc gần sáng. Đọan chúng tôi qua sông sau này gọi là Bến Dược, chứ lúc ấy
chỉ biết theo đường vạch ra của tring s1t cấp trên mà thôi. Tôi nhớ cầu phao công
binh làm ghép bằng những thuyền quay ngang, nước, nước thủy triều rút nên phải
lội một đọan bùn mới lên cầu. Qua sông, chúng tôi đi bộ trên con đường cũ phủ kín
lá và cỏ hoang. Củ Chi hoang tàn, Củ Chi bình địa với xe pháo cháy thui, những
gò đóng lở loét hố bom, hố pháo. Dưới chân chúng tôi là gạch đá, là mảnh bom, vỏ
đạn, dấu tích của mười mấy năm đất thép thành đồng này đánh Mỹ và trụ vững để hôm
nay có bàn đạp cho đại quân tiến đánh trận cuối cùng.
Nơi trú quân rất chật hẹp, ven con lộ đất sỏi chạy qua bến Đình,
nằm sát mép sông Sài Gòn. Bộ đội không được đi lại, không được tắm lội trên sông.
Mỗi người di chuyển đều có một cành lá tươi cầm theo che trên đầu. Máy bay địch
lượn lờ và thỉnh thỏang một trận pháo đổ dồn từ phía Bình Dương, đồng Dù ập tới.
Tôi vốn là lính bộ binh lên trinh sát nên mấy ngày nay nằm gần đại đội cũ của mính,
tôi mò xuống C7. Lính mới bổ sung tháng 12/74 tòan quân Phú Thọ nên bọn tôi nằm
trong cỏ mà thả hồn tán chuyện quê hương. C7 đóng ở một khu đất áng chừng trước
đây là một xóm nhà dân trù phú. Vẫn còn những chân cột, góc chuồng lợn và cây
trái ăn quả. Cỏ lau, cỏ lác mọc um tùm lên những nền nhà, những góc vườn chả biết
chủ nhân của của mảnh đất này giờ lưu lạc góc trời nào. Thằng Hòa, người phố
Cao Bang, đặt khẩu B41 tựa lên thân cây rễ còng queo, lá xanh che vòm như cái tán
ô. Mà kì lạ, phía bên trên chòm lá xanh là những cánh hoa đỏ chói, chen lẫn những
cánh hoa trắng như cánh bướm. Những cánh bướm mỏng manh sau mỗi đận pháo nổ lại
rung rinh lắc lư trên đầu. Gió sông Sài Gòn làm nó đung đưa, cái vòm hoa ấy xôn
xao tiếng cười, tiếng hát của lính.
Tôi bảo Hòa ăn chơi quá nhỉ. Nằm trong vòm hoa rõ là đẹp, viết
thư cho người yêu thế kia có mà quá là mày đi học nước ngòai, đang kể về trời Âu.
Nó bảo, ừ thật đấy, em suýt nữa đi Tây rồi. Trường Hùng Vương chúng em đi Tây đông
lắm nhưng em lại nhận giấy báo đi bộ đội trước. Đợt chúng em nhập nhũ là
29/4/74 anh ạ. Nó bẽn lẽn… bạn gái em cũng đi học ở Liên Xô. Em cũng mới nhận
được thư cô ấy hôm ở Chơn Thành. Tôi hỏi, thế mày viết thư cho người yêu chưa?
viết luôn đi chứ, cứ gửi lên chỗ E bộ, họ sẽ chuyển cho về phía sau. Hòa hớn hở
khoe, có chứ anh. Có thể cô ấy sẽ nhận được thư em khi đã giải phóng Sài Gòn ấy
chứ. Nó cười, vòm hoa đỏ trên đầu rung rinh. Rồi đột nhiên nó hỏi, anh có biết
tên hoa này là gì không? Tôi bảo chịu, chưa thấy bao giờ. Chúng nó - cả tiểu đội
lao nhao, chúng em cũng thế, không biết hoa gì, cứ nghĩ anh Luân học cao hơn thì
biết. Tôi gật gù ra vẻ suy nghĩ. chả nhẽ gọi hoa bướm? vì cánh nó giống cánh bướm.
Rồi dứt khóat tôi bảo, thôi nhớ ra rồi. đấy là hoa bướm. Mấy thằng ngồi im có vẻ
tâm phục. Thằng Hòa thì nói khẽ, em không tin, nhưng đẹp quá anh ạ, nắng càng
to màu nó càng sáng lên, rực rỡ hơn. Sau này hòa bình, em sẽ mang giống hoa này
về thị xã Phú Thọ trồng và sẽ gọi là hoa Củ Chi. Cả lũ cười nhăn răng, hoa Củ
chi là hoa Chỉ Cu đấy mày ơi. Thằng
Hòa và tôi cười phớ lớ. Dưới kia sông Sài Gòn xanh veo gió và trên đầu chúng
tôi, hoa vẫn rung rinh đỏ.
Sáng 29/4 nổ súng đánh trận cuối cùng. Trận đánh ấp chợ và Cầu
Bông diễn ra từ 5 giờ sáng tới 12 giờ trưa. Đây là phòng tuyến cuối cùng để quân
ta tiến vào thành phố Sài Gòn, vì thế quân địch càng quyết tâm cố thủ. Tiểu đòan
tôi đã hi sinh hơn ba mươi tay súng. Tình cờ khu ấp chợ Tân Phú Trung cũng miên
man những rặng hoa giấy đỏ tươi và những hàng cây bằng lăng hoa tím. Mấy chục
chiến sĩ gục trên mép đường bờ ruộng ngay cả dưới những vòm hoa đỏ. Pháo và đạn
cối làm những cánh hoa giấy bay tả tơi.
Thằng Hòa hi sinh lúc 9 giờ sáng. Khẩu B41 của nó chỉ còn một
quả đan mang theo. Chúng tôi chỉ kịp nhìn nó, cái thằng to cao, da nâu bóng và
chiến đấu rất lì, được bà con đang rửa ráy, khâm liệm rồi vội vã tiến vào Hóc Môn.
Trận địa Tân Phú Trung lùi lại đằng sau vẫn nôn nao màu đỏ của
hoa giấy và man mác màu tím hoa bằng lăng.
Nhiều năm sau, trong một lần về dự gặp mặt 29/4 cùng anh em tiểu
đòan Phú Thọ. Sau cuộc liên hoan ở nhà văn hóa thị xã, cả bọn rủ nhau đến thắp
hương cho thằng Hòa, Cao Bang. Trưa hôm ấy có một ngừơi phụ nữ đi cùng cánh cựu
chiến binh chúng tôi. Ở nhà Hòa ra, chị ấy mời chúng tôi đến thăm nhà. Chị nói
khẽ khàng. Nhà em cũng gần đây, mời các anh tới thăm nhà em, em là người yêu của
anh Hòa nên cũng là gần gũi với các anh cả thôi. Thật là bất ngờ và vui, chúng
tôi đi đến nhà người đàn bà có dáng đẹp mặn mà, lịch sự ấy. Tới nơi, tôi bỗng
giật mình vì căn nhà đẹp thì ít mà bàng hòang vì sắc rực rỡ hồng tươi của giàn
hoa giấy thì nhiều. Cả chiều dài mặt tiền ngôi nhà long lanh màu đỏ hắt nắng xuống đường loang lổ. Trong tôi vụt hiện lên sắc
hoa giấy Củ Chi với hình ảnh Hòa hôm nào. Trưa hôm ấy, người đàn bà chậm rãi kể
với chúng tôi.
…Một tuần liền kể từ ngày 30/4/75 hầu như hàng ngàn sinh viên
Việt Nam không ngủ, không học mà chỉ nhảy múa hát hò. Các bạn sinh viên nước ngòai
cũng vui lây bởi chúng em. Các trường đại học có sinh viên Việt Nam đều cho
sinh viên Việt Nam nghỉ học và liên hoan. Trong niềm vui vô bờ bến ấy, em cứ hồi
hộp và nhiều khi thảng thốt nghe như anh Hòa gọi. Em giở ngót chục lá thư trong
một năm chúng em xa nhau, cũng là một năm Hòa đi bộ độ. Chì có hai lá thư viết
tư chiến trường, một là ở Tây Nguyên và một lá ở Củ Chi. Em đọc mãi đến thuộc lòng
những lá thư ấy để hi vọng Hòa trở về. Cho tới hai tháng sau nhận được lá thư đề
ngày 25/4/1975. Hòa kể đang ở bên sông Sài Gòn trên vùng đất có rất nhiều thứ
hoa đỏ tươi ven sông Sài Gòn. Nơi ấy gọi là đất Củ Chi… Người phụ nữ cuối xuống
lau nước mắt. Các anh biết không? Trong lá thư kẹp một cánh hoa màu đỏ đã nhạt
màu chuyển sang hồng. Em cũng không biết là hoa gì, chỉ nghe Hòa nói thứ hoa này
mọc rất nhiều ở Củ Chi và đỏ rực rỡ khi nắng lên, rằng đây là hoa có sức sống mãnh
liệt mà Hòa rất thích.
Tin Hòa hi sinh đến sau vài tháng. Lúc ấy vào mùa đông. Nước
Nga trắng tuyết và em cũng sang năm học thứ hai. Em nâng niu cánh hoa màu đỏ ấy
trong tuyết lạnh xứ người, người yêu em mất vào ngày cuối cùng giải phóng, em
mang bông hoa ấy trở về Việt Nam và quyết tâm đi tìm nó. Tất cả chúng tôi đều bất
ngờ và nước mắt đã mằn mặn trên khóe miệng. Tôi tưởng đâu thằng Hòa đang cười với
tôi dưới vòm hoa giấy kể chuyện người yêu đang ở nước Nga…
…Thì đây, các anh thấy đó, em đã vào Củ Chi nơi anh Hòa hi
sinh và dễ dàng nhận ra lòai hoa Giấy mà anh Hòa thích, đã gửi nó trong thư qua
hơn chục ngàn cây số đến cho em. Em mang cành hoa ở đó về trồng ở đây khi em có
nhà riêng. Kì lạ. Cây hoa mọc rất nhanh và tán vươn đan như cái vòm cong cánh
buồm. A ba mươi năm rồi, tán hoa giấy nhà em quanh năm rực rỡ, cứ đến ngày giỗ
anh Hòa hoa càng rực rỡ hơn. Cả phố này không ai biết hoa ấy mang từ miền Nam về.
Chỉ có hương hồn Hòa thì biết, em chắc là anh ấy biết.
Tôi trở lại An Nhơn Tây nhiều lần và lần nào cũng vậy, lại đến
bên mộ thằng Hòa. Cái bia ghi: Phạm Văn Hòa
– Quê quán: phố Cao Bang TX Phú Thọ - Hi sinh 29/4/1975 hiền lành như bao tấm
bia đồng đội khác. Đến bây giờ thằng Hòa vẫn chưa biết tên cái lòai hoa mà nó
thích. Nghĩa trang An Nhơn Tây rợp màu lòai hoa ấy. Đỏ thật tươi, sống thật mãnh
liệt, bốn mùa lá nó cứ rung rinh, và hoa cứ nở cả bốn mùa.
No comments:
Post a Comment