Viết để nhớ về ngày 30/4 lịch sử
Cảm nhận về bài thơ "Đêm cuối cùng mẹ ru con" của Nguyễn Trọng Luân
Đêm cuối cùng Mẹ ru con
Biền biệt mấy chục năm mẹ đón con về
Đồng đã gặt rồi , đón con rơm vàng xóm ngõ
Tám mươi tuổi mẹ lại bồng con , vườn nhà nức nở
Nức nở ...à ơi
Đêm nay nhà mình đèn lại sáng choang
Nước mắt tưởng khô mấy chục năm không khô nổi
Thức cùng con đêm nay
Mai con lại đi rồi
Mẹ bồng con à ơi
Hài cốt quấn vuông vải mới
Có tã lót nào đau xé lòng đến thế ?
Me ru con quằn quại tiếng trống kèn
Cái tên Cửa ngõ Sài gòn
Ba mươi ba năm mẹ nằm mơ đêm nào cũng thấy
Ngày một ngày rằm thắp hương bánh Cáy
Ngày thường rau tập tàng cua ốc ...à ơi ..
Mai lại đưa con đi với đồng đội con rồi
Nghĩa trang heo heo gió tím
À ...ơi ..
Ngủ đi con
Đêm nay mẹ ru con lần cuối ..
À ...ơi...
(Viết tặng mẹ đồng đội tôi liệt sĩ Phí văn Măng
NTL)
Bài thơ này đã hai lần được in. Lần đầu được in trong Tạp
chí VNQĐ tháng 11/2008, ngay sau khi tác giả viết xong bài thơ trong chỉ
có một đêm,
khi hay tin gia đình đã đưa được hài cốt của liệt sĩ về quê. Lần thứ
hai là trong tập thơ "Mây trên trời Quảng Trị", xuất bản tháng 4/2012
với sự cổ vũ và góp công của nhiều thành viên trang mạng
VMH.
Giữa hai khoảng thời gian đó, tôi đã được đọc bài thơ này
vào tháng 1/2012, khi tác giả Nguyễn Trọng Luân gửi đăng trên trang VMH.
Lúc đó tôi
chưa biết và thân thiết với anh như bây giờ, dù chúng tôi cùng có thời
gian là lính của sư đoàn 320A, chiến đấu trên chiến trường B3 Tây
Nguyên những năm chống Mỹ. Những câu thơ như xé lòng của
người lính chiến nặng nghĩa tình đồng đội Nguyễn Trọng Luân đã làm tôi
không cầm được nước mắt. Dù đã cắn chặt răng mà nước mắt vẫn chảy giàn
dụa.
Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc và đem lại nhiều khổ đau
mà gánh nặng nhất luôn đè lên người mẹ. Bởi người lính cầm súng tham
chiến và ngã
xuống trên chiến trường là con trai của Mẹ. Mang nặng đẻ đau và tần
tảo nuôi con khôn lớn, để rồi cuối cùng lại phải tiễn con vào trận
tuyến, để canh cánh chờ mong tin con trong nỗi nhớ khôn nguôi.
Năm xưa khi còn khoác áo lính, mỗi khi nghe bài hát "Rồi hai
mươi năm sau" của Trầm Tử Thiêng - Tấn An do ca sĩ Hương Lan hát, lòng
tôi luôn
trĩu nặng nỗi buồn và suy tư. Những tiếng "à ơi…" lặp đi lặp lại trong
câu hát của người mẹ hai mươi tuổi ru con trong giấc ngủ ban đầu, mong
con lớn khôn, nhưng rồi lại cánh cánh nỗi lo về hai
mươi năm sau sao mà day dứt lòng người. Chiến tranh điêu tàn, đứa con
bé bỏng hồng hào thiu thiu ngủ trên tay mẹ ru hôm nay sẽ thế nào sau hai
mươi năm? Người mẹ ru con, lời ru nặng tình mẫu tử
chứa chan tình thương hôm nay, nhưng lại chứa đầy sự âu lo nếu hai
mươi năm sau, con cũng hai mươi tuổi như mẹ hôm nay, nhưng lại là người
trai phải cầm súng xông trận thì sao? Rời khỏi vòng tay mẹ
rồi, liệu con có trở về không? Bởi con thì lúc nào cũng bé bỏng trong
mắt người mẹ.
Những năm chiến tranh, khi hoàng hôn buông xuống trên chốt ở
Cao nguyên, nhìn làn mây giăng mờ những đỉnh núi xa xa, trong sương
chiều lành
lạnh, tôi luôn nhớ về mẹ. Nhớ cái lúc mẹ tiễn chân đi, cái nắm tay vừa
dùng dằng như níu kéo, còn cái buông tay thì cố dứt khoát để đứa con
yên lòng lên đường. Nước mắt chảy vào trong, để
mong có thể dành cho ngày gặp mặt. Chặng đường chiến chinh gian khổ,
nếu con có khóc một thì mẹ khóc mười vì thương con. Nếu con không về thì
sao? Người ra đi thanh thản lắm, nhưng người chờ đợi
thì sao có thể ngăn được nỗi buồn? "Nếu con không về, chỉ xin mẹ đừng
buồn", lời mong ấy của người đi xa sẽ chẳng bao giờ thực hiện được, vì
tấm lòng người mẹ chẳng có thể nào đo được, làm sao có
thể không buồn khi mất con?
Chiến tranh đi qua, có bao nhiêu người lính không trở về là
có bấy nhiêu bà mẹ phải khóc thầm từng đêm vì mất con. Cuộc chiến tranh
ba mươi
năm giành độc lập của dân tộc ta quá dài, nên không thể đếm hết được
có bao nhiêu người mẹ khổ đau như thế. Chút an ủi cuối cùng của mẹ là
đưa được phần xương cốt của con về quê hương để còn tháng
ngày hương khói. Năm tháng dần trôi, dù cả vài chục năm trôi qua vì
những gian nan trắc trở, mẹ vẫn hy vọng đưa được "đón" con về.
Ba mươi ba năm sau ngày chiến thắng, khi đón được con về thì
lưng mẹ đã còng xuống quá nhiều rồi. Chân đã run, mắt đã mờ, nhưng đứa
con trong
mắt người mẹ vẫn là đứa con bé bỏng.
Mẹ bồng con à ơi
Hài cốt quấn vuông vải mới
Có tã lót nào đau xé lòng đến thế ?
Me ru con quằn quại tiếng trống kèn
Tôi đã khóc chính vì đọc câu thơ đọc đau đến xé lòng này. Có
ai bồng ru hài cốt không? Có ai nhìn tấm vải liệm con phủ lá quốc kỳ là
tấm tã
lót sơ sinh không? Chỉ có thể là Mẹ thôi. Mẹ vẫn nhìn ra hình bóng đứa
con trong gói hài cốt vô tình. Không phải là hình hài của đứa con hai
mươi tuổi ngày ra trận, mà chỉ là đứa con bé bỏng mẹ ru
trong giấc ngủ ban đầu. Chỉ còn một đêm thôi, đêm cuối cùng và mãi mãi
không bao giờ mẹ còn được ôm con trong lòng nữa, dù chỉ là gói hài cốt.
Hình ảnh người mẹ ôm "con" vừa ru vừa khóc trong ánh đèn leo
lét, bập bùng sao mà đau xót thế. Mẹ đang ru con lần cuối, trút hết
tình thương
con lần cuối để con ra đi, hiểu tấm lòng mẹ và đừng trách mẹ. Đau lòng
lắm, nhưng chiến tranh mà, có ai quyết định được số phận mình đâu?
Càng đọc, càng ngẫm câu thơ và càng không cầm được nước mắt.
Tiếng "à…ơi…" của điệu ru như một điệp khúc trong bài thơ sao quá não
lòng. Tôi
biết bài thơ này đã lấy đi nước mắt của không biết bao nhiêu người khi
đọc nó. Và cả Nguyễn Trong Luân nữa, bài thơ này anh viết trong một
đêm, nhưng không thể viết liền một mạch, vì anh sẽ phải
vừa viết ra, vừa khóc.
Cảm ơn nhà thơ đã nói hộ tấm lòng bao bà mẹ liệt sĩ, thêm một lần nữa tô vào bức tranh của "Tình mẹ thương con"./.
ChienC6
chiensi13/05/2012 - 16:25
No comments:
Post a Comment