Tiểu đội tôi thằng Chiến rất hay khóc. Nó chỉ
kém tôi có một tuổi mà già như quắm. Bình thường nó nhanh nhẹn giảo
hoạt. Nhất là có việc gì động đến củi lửa, cuốc đất, mổ lợn mổ gà nó làm
nhoay nhoáy tinh tươm.
Bốn tháng huấn luyện để đi B chả cần đến chúng
tôi làm anh Ba-toa , nhưng cái anh Thạch Sanh thì tuần nào cũng ghé thăm
đại đội. Ngày trước Thạch Sanh đi kiểm củi hẳn là gần hơn lính chúng
tôi , bởi cái thời chúng tôi rừng vàng biển bạc ai cũng biết rồi nên lao
vào tấn công như dịch . Lấy được 30 kg củi đi mất ngày rưỡi . Nếu chỉ
thiên về chất đốt thì đơn vị chả cần đến mỗi chiến sĩ phải đi qua đêm
mới được về và cõng trên lưng mớ củi tươi hay khô tùy ý . Sự kiếm củi là
để rèn đôi chân và đôi vai cho những ngày chèo Trường sơn sắp tới .
Chúng tôi khoái cái sự đi làm Thạch sanh lắm. Tù túng điều lệnh bí bách
bao lâu, nay thả ra đồng lên rừng, mỗi thằng đùm nắm gạo con cá khô đơn
vị phát cho thế là B nào B nấy lên đường. Có đồng chí đảng viên B
trưởng đi cùng hướng về nơi cao xanh mà rộn ràng cười nói mà lâng lâng
với tâm thế của con chim sổ lồng. Nơi mà chúng tôi đến là xã Hợp Tiến,
bây giờ có nhẽ nhà tầng đường ô tô đã phơi phơi rồi chứ ngày ấy Hợp tiến
vốn là nơi khỉ ho cò gáy của huyện Đồng Hỷ Thái Nguyên. Từ dốc Hanh đi
vào đó có nhẽ hơn hai mươi cây số, chúng tôi qua nào là Tân Đức Tân Kim
vân vân chỉ thấy nắng sớm và các thôn nữ vẫy vẫy lính và eo éo gọi rinh
rích cười . Thằng Chiến hăm hở đi đầu. Nó là người vùng này mà, nó nhấm
nháy với Bê trưởng rằng anh đi theo em Bê mình sẽ rất nhàn nhã. Bê
trưởng gật gật. Mới ra khỏi doanh trại thằng nào cũng đi ưỡn ngực, nụ
cười của lính kiêu bạc đậu nửa mồm, mũ cối hơi lệch một bên và con dao
cái rựa thì dấu rõ kĩ. Hai ba tiếng sau rừng đã rậm hơn, gái quê và đồng
bào chứng kiến cũng ít hơn lính bắt đầu bước chân chấm phẩy rõ hơn.
Thằng nào vòng kiềng ra vòng kiềng, thàng nào chữ bát ra chữ bát có
thằng vừa đi chữ bát tay khoát lỗ khu ậm ạch đuổi theo đội hình lẩm bẩm
chửi những thằng đi trước. Đận ấy mùa đông nắng sớm và sương núi ngứa
ngáy trong những cái lưng đẫm mồ hôi. Bê trưởng tôi là người đa trí. Anh
bảo kệ mẹ chúng nó đi chặt củi , tao dẫn chúng mày vào doanh trại cũ
của D50 , họ đi B mấy tháng rồi, dỡ vài cái cột kèo mà vác cho nhẹ . Dẫy
lán tranh tre đã cũ vẫn đâu đây hơi ấm của lính mình. Chúng tôi ghé vào
một vạt rừng chừng vài mươi ngôi nhà mái bằng nứa dập ra đan thành
tranh, cột kèo toàn là cây rừng mà lính ta tự làm lấy vẫn còn tốt
nguyên . Vườn rau cái giếng vẫn như có người ở , vẫn lủng lẳng cái gầu
múc nước băng cái sô tôn hoa mang dấu hiệu Sắt tráng men HP. Tôi lững
thững ghé vào từng gian nhà , nhặt lên những mảnh giấy xót lại những
dòng chữ áng chừng lớp 6, lớp 7 ghi nợ tiền ai mấy hào , ai nợ mình mấy
hào … Tôi bước thật chậm để đọc được dấu ghi bằng mực Cửu long trên thân
cột tre những dòng chữ ..’ thương cha nhớ mẹ “ và cả những dấu chữ rất
đậm : “ Hận đời , người đàn bà phản bội “. Qua vài căn nhà tôi biết
được tiểu đoàn này là lính Phú thọ quê tôi , giờ này chắc họ đã chiến
đấu trong Nam rồi . Những người đã từng viết chữ trên cái cột kia liệu
có còn hay đã hi sinh ? mùi ẩm mốc trong những dẫy doanh trại như mùi mồ
hôi của lính của những con người mới xa cha mẹ ruộng đồng , giống như
mùi chúng tôi bây giờ .
Chiều nay, chúng tôi đã dỡ mỗi người một
xuất củi và chuẩn bị tinh tươm cho chuyến trở về sáng mai. Đêm nay chúng
tôi ở lại doanh trại cũ này. Kể từ ngày vào bộ đội đây là lần đầu tiên
tôi và trung đội ngủ dã ngoại một cách tự do như thế. Chúng tôi hái rau ở
vườn cũ của lính đã đi chiến trường, múc nước từ cái giếng cần vọt mà
gầu nước cuối cùng đã dội rửa mặt cho người lính nào đó trước giờ hành
quân vào mặt trận , chúng tôi đốt lửa trong căn nhà có đề bằng mực màu ở
dóng cửa “ C bộ “ . Sương đêm rơi, rừng lạnh lẽo và chỉ có tiếng con
chim kêu phía ngọn rừng chót …bóp .
Lửa lập lòe, chúng tôi kệ cho
tàn lửa tí tách nhẩy. Nhìn đồng đội tôi hiểu rõ là mỗi đứa đều đang nhớ
về bếp lửa nhà mình. Ngó sang mấy thằng lính thành phố, chả hiểu nhà nó
có bếp củi không mà cũng thấy bần thần . Lại thằng Chiến lên tiếng. Nó
bảo nhà tao cách đây mươi cây số thôi, ban đêm nhà tao vẫn để gộc củi
cháy và vùi tro bếp để nó lập lòe thôi . Lửa cứ phải lập lòe để không
có ma về .
Thằng Thọ người Long Hưng Văn Giang co rúm người lại .
Đ. mẹ mày nói chuyện ma tao khủng hoảng lắm. Hi hi cả Bê cười . B trưởng
ngó sang, quê Văn Giang mày toàn đơm đo bắt ếch bắt chuột đêm ngoài
đồng mà sợ ma à ? Thọ nhát gừng , bãi tha ma làng em đầy ma trơi, em
không dám đi đêm qua đồng làng. Em sợ lắm …
Thằng Chiến kể lúc bé ở
nhà nó theo bố lên rừng bao giờ bố nó cũng đốt cho đống lửa bảo nó ngồi
đó đợi . Nó hỏi sao phải đốt lửa bố bảo , để không có con ma nào dám đến
. NÓ ngồi tha thẩn hết vót bẫy chim lại đẽo quay cứ thi thoảng lấy thêm
củi khô cho vào, khói mù tăng tít muỗi rĩn bọ bẽm cũng không dám bén
mảng tới , nó thản nhiên mà nghịch ngợm đợi bố về . Ừ hóa ra đúng thật
có lửa chả ma nào dám tới . Rồi nó cưới vợ ngay trước ngày nhập ngũ .
Cũng lại ba tháng sau chúng tôi đi B. Dọc đường hành quân thôi thì
khỏi phải nói biết bao nhiêu là bếp lửa trên Trường Sơn, trong rừng Kon
Tum rừng Gia lai những mùa chiến dịch và cả bên kia biên giới những mùa
đi mót sắn . Bếp lửa nuôi sống lính ta cứ lập lòe . Cũng có lúc bếp lửa
mang tai họa cho lính vì khói mà ăn bom ăn pháo. Dù gì thì bếp lửa cứ
mãi là sự sống cho lính rừng , nó cứ lập loè chả bao giờ nguội lạnh.
Trong cô đơn chết chóc mà đêm đêm nhìn thấy ánh lửa là thấy mình khỏe
ra. Có một đêm ở rừng Khăm Muộn bên Lào tôi hỏi thằng Chiến , mày có bao
giờ thấy ma nhẩy chập chờn bên bếp lửa không? Nó chửi, mẹ mày lại chơi
sỏ tao . Hơ hơ mày bảo đốt lửa để dọa ma, thì ma nó sợ nó nhẩy tứ tung
quanh lửa đó thôi . Chiến thở dài . Lúc bắt đầu ra khỏi chợ Hanh lên
tàu đi B tao dặn vợ tao đêm nào cũng phải để lửa trong nhà . Chả biết nó
có nghe tao không, nó còn ít tuổi quá. Hừ sinh năm 54 giờ mới 18 …mẹ
kiếp..
Mấy năm đánh nhau trong rừng, bếp lửa cũng cứ lập lòe. Ca
cóng, hay ở chốt thì bếp lập lòe trong hầm. Ban ngày không dám đốt chứ
ban đêm lại hì hụi nhóm bếp, cả những mùa bám địch những bếp lửa tí hon
vẫn đủ cho lính niềm vui như vẫn ở quê nhà. Thì đấy, cái ngọn lửa bé đến
mấy cũng không thể gọi là lập lòe được, nó cứ nóng bỏng và đốt cháy
mọi thứ dẫu là to đến mấy .
Bốn mươi năm sau, ngày gặp mặt D76 chúng
tôi ở Chùa Hang Thái nguyên, tôi gặp Chiến. Tóc nó bạc , nó ít nói và
thấy lòe nhòe nước mắt . Hỏi nó chuyện vợ con gia đình, nó buồn .
Hai năm sau ngày Chiến đi B vợ nó ở nhà bỗng có một đứa con. Ngày
từ miền Nam vác ba lô về nó không khóc, vợ nó và nó vẫn ở với nhau như
không hề chuyện gì xẩy ra. Nhưng chỉ vài năm sau vợ nó mang con ra đi,
Chiến cũng lặng im ở vậy. Ba mươi mấy tuổi mới lấy người vợ sau ngoan
hiền và rất thương Chiến . Ấy thế mà trời cho đến nửa chừng. Đầu năm
2012 vợ nó ung thư bỏ nó ra đi. Hai đứa con mới ra ở riêng vẫn ở cái
vùng núi trên con đường chúng tôi đi lấy củi năm xưa. Nhìn Chiến tôi cứ
nghĩ liệu lúc đi B cô vợ trẻ của nó có nghe lời nó đốt lửa đêm ở nhà hay
không ? hay lửa nhà nó không thiêng . Bây giờ , vợ sau của nó chết rồi
liệu nó có còn đốt lửa hàng đêm không ? Ấy thế mà với tôi những chuyến
đi du lịch lên vùng cao thậm chí cả vùng không cao vẫn thấy con người ta
đốt lửa rồi nhảy nhót tưng bừng với rượu cần rượu hũ rồi nối vòng tay
lớn dưới vòm trời đêm tàn lửa tí tách lằng nhằng .
Bếp lửa vẫn còn bừng
bừng chưa đến nỗi lập lòe họ đã dẫn nhau ra rừng về khách sạn bỏ lại
đằng sau lửa hồng rưng rức cô đơn trên bãi vắng. Những đốm lửa cô đơn .
Đây đó chỉ còn lại câu chuyện xưa bếp lửa trừ tà như quá vãng .
Lửa vẫn lập lòe
8/2013
8/2013
No comments:
Post a Comment