Monday, March 30, 2015

Vời vợi Cửa Tùng ( Phần 1 )

                                                                      
Vời vợi Cửa Tùng  Phần 1
Sáu mươi tuổi tôi mới trở lại Cửa Tùng. Với tôi , Cửa Tùng là kỉ niệm một đêm . Một đêm ở bến đò Tùng Luật . Một đêm sang sông , một đêm qua đạn bom dưới tay chèo của người dân Vĩnh Linh , rồi chiến tranh kéo đi biền biệt . Cái bến đò xưa , những cô dân quân ngày xưa , các cụ  già chèo đò đưa  chúng tôi sang sông đánh vào Cửa Việt đêm ấy cũng chỉ gặp một lần rồi  biền biệt xa    


   Từ lối rẽ trên đường Hồ Chí Minh xuống Hồ Xá lòng đã thấy rưng rưng . Hồ Xá xanh thế này  ư ? Cái đêm hành quân qua đây chỉ thấy một vùng  gạch vụn và đất đỏ khét lẹt mùi bom , mùi pháo từ bên kia giới tuyến bắn sang . Đội hình hành quân nhấp nhổm trên đoạn đường lúc chập choạng tối . Giao liên dẫn đường là cô gái Vĩnh Linh đi nhanh hơn chạy . Lần đầu tiên tôi nghe “ mấy eng vui tính hỉ “  “ Bộ đội sông Dinh hờ “ . Ngày ấy hành quân xuống bến đò sao nhiều cây dứa gai thế . Bộ đội đi soàn soạt gai cào . Bây giờ thỉnh thoảng mới gặp một hàng rào rứa gai xanh ngắt , cắt tỉa gọn gàng . Con đường về Cửa Tùng nhỏ thôi , nhưng đẹp . Ngồi trên xe cứ bồi hồi , ước ao gặp người con gái chèo đò năm nào . Trong đêm , đứng ở mũi thuyền , quần sắn quá gối , khoảng trắng cứ nhấp nhổm trước mũi súng chúng tôi . Khoảng trắng chân trần gái Vĩnh linh dàn dạt sóng Cửa Tùng . Biết rằng ước ao của mình vơì vợi quá . Bởi  ai còn ai mất ?  Những người tôi gặp trong cái đêm xuân 68 ấy ?  Mà nếu có còn thì các o cũng đã như mình . Già nua . Bỗng nhớ về một bài hát của nhạc sĩ Ngọc Toán ... “......Những chiến binh tìm về trận đánh, cứ lặng lẽ tìm về kỉ nệm . Tôi già rồi , em đâu còn trẻ nữa...’ 


 Kỉ niệm vời vợi xa . Nay lại về với Cửa Tùng.


   Vĩnh Giang đây . Hai bến đò A, bến đò B Tùng Luật bây giờ đã trở thành di tích lịch sử . Cái bãi sông hiền lành làng Tùng Luật quần quật suốt thời đạn bom . Chỉ chừng hơn trăm sải nước mà máu  không ngừng chảy ở quãng sông này mấy ngàn ngày đêm . Hàng trăm con thuyền , hàng ngàn người dân làm nhiệm vụ như người lính . Bộ đội chúng tôi chỉ một lần vượt sông , còn người chèo đò thì hàng chục lần qua sông trong một đêm dưới tầm bom pháo . Thử hỏi có ở đâu người nông dân đi nghĩa vụ dân công như nơi này . Đó là những chuyến đi ra đảo Cồn Cỏ , chở gạo , chở đạn và hơn hết là tiếp thêm niềm tin của người đất liền cho các chiến sĩ trên tiền tiêu sóng gió  .  Một thời . Cồn cỏ là  tuyến đầu của Vĩnh Linh , mà  Vĩnh Linh là tuyến đầu của miền bắc . Mỗi chuyến đi , trở về đâu còn nguyên vẹn . Để  bây giờ trước mắt chúng tôi , đảo Cồn Cỏ vẫn hiện lên , như mỗi bình minh người Cửa Tùng hướng về hừng đông là thấy Cồn Cỏ . Người Vĩnh Linh ngày nay đang gửi gắm con cháu mình ra sinh cơ lập nghiệp nơi đó , để nối hòn đảo này với quê hương  . Cửa Tùng vẫn đi về với Cồn Cỏ . Nhưng lâu lắm rồi , thông tin về hòn đảo anh hùng đâu còn được nói nhiều như trước . 
Vẫn biết cuộc sống đổi mới hôm nay nhiều việc phải làm  .  Nhưng nhớ ơn và trả ơn thì cần phải làm trước tiên cho đạo làm người . Cồn Cỏ tiền tiêu nay trở thành kỉ niệm rồi sao ? kỉ niệm cứ dần xa . Tôi không tin là thế , bởi Người Vĩnh Linh vẫn đau đáu ngày đêm bảo vệ con mắt biển khơi của quê mình . Một thế hệ thanh niên đã tình nguyện lập nghiệp , đang sống ở cái nơi mà cha ông mình tưới máu giữ gìn . Đi qua chiến tranh  hàng ngàn , hàng ngàn người nông dân Vĩnh Linh ngã xuống dưới đạn bom trong tư thế của người liệt sĩ . Nghĩa địa của làng có bia liệt sĩ không ?

Cũng ở bến đò này , các mẹ các chị mòn đêm rưng rức khóc , trắng những đêm tắm rửa khâm liệm cho liệt sĩ , băng bó thương binh từ bờ nam đưa ra . Đêm này qua đêm khác , bao nhiêu năm đất Vĩnh Giang , đò Tùng Luật đổ máu . Bao nhiêu ngày đêm chứng kiến những đứa con trai miền bắc miền trung chết trẻ . Người Vĩnh linh đợi chờ vòi vọi chồng con trên những chuyến thuyền ra Cồn Cỏ trở về , chờ những đứa con đánh giặc phía Gio linh trở về . Gần thế , chưa đầy nửa tầm pháo mà cả làng , cả nhiều làng ngóng trông vời vợi . Tôi bồi hồi như đang thấy lại tiểu đòan 47 Vĩnh Linh của tiểu đoàn trưởng Trần Văn Thà qua khúc sông này một đêm tháng 1/1968 . Tôi cũng hình dung ra hai nhà báo quân đội Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu sang sông đêm ấy lỉnh kỉnh súng đạn và máy ảnh , rồi các anh chiến đấu dũng cảm như những dũng sĩ D47 và nằm lại mảnh đất Của Việt này . Bây giờ các anh đang yên nghỉ ở nghĩa trang liệt sĩ Gio Linh cùng với đồng đội của mình . Viết những dòng này , tự dưng thấy ngòi bút của mình bỗng ngập ngừng , chúng tôi bỗng bé lại trước các anh . Các anh vừa nổ súng ở chiến hào , các anh vừa viết , những bài báo được viết bằng máu . Chắc hàng năm những người làm báo Quân đội Nhân Dân vẫn về đây với các anh . Nén hương nào của người viết bây giờ tri ân với các anh cho đủ ?Dừng chân trên bến đò A Tùng Luật , tôi gọi điện cho một người đồng đội của tôi ở trung đoàn 48 .  Tuy đã nghỉ hưu nhưng thượng tá Nguyễn Huy Tưởng vẫn luôn nặng lòng với quá khứ đời lính của mình . Anh trả lời tôi trong xúc động , cậu thắp giùm tớ nén nhang trên bến đò Tùng Luật nhé, bao đồng đội của mình và bao bà con đã hi sinh vì chở đò đưa chúng mình qua sông năm 68 đấy , tớ không đi được mà thấy có lỗi quá . Từ bến đò này ra đi sư đoàn tôi đã cùng các đơn vị bạn trút lửa đạn vào đầu kẻ thù và cũng ở bến đò này trở về chói lọi chiến công mà đơn vị tôi mãi tự hào có Nguyễn Như Hoạt .  Người lính Đại đoàn Đồng Bằng trở lại với cửa Việt càng thêm tự hào với cái tên Trung đoàn Vĩnh Định người anh em sinh đôi của trung đoàn 64 chúng tôi . Càng thêm tin vào truyền thống của sư đoàn , thương hiệu Đại đoàn Đồng Bằng anh hùng.  

Xe chúng tôi đi lẫn vào rất nhiều xe mang biển số Hà nội , Hải phòng , Nam định , Phú thọ.... Rất nhiều du khách người nước ngoài xuống xe ngay  tấm bia di tích bến đò Tùng luật A .  Họ chỉ chỏ sang phía bờ nam , rồi dang tay như tỏ ý khoảng sông ngắn thế mà đã ngăn chia hai vùng chiến tuyến mấy chục năm . Không biết trong đoàn hành hương ấy có bao nhiêu người như tôi  , người chiến binh tìm về trận đánh , lặng lẽ với kỉ niệm , với  bao đồng đội không về .Nắng đầu hè oi ả . Cây cầu nối Vĩnh Giang sang bờ nam dẫn chúng tôi tới cửa Việt . Vắng người , đường lại đẹp . Xe qua cầu rồi chạy dọc theo triền cát đụn lên thành đê chắn biển . Dọc con đê ấy là bãi tắm Cửa Việt. Làng quê vẫn lom dom . Nhà cửa vẫn chưa đông đúc . Cát vẫn trải triền miên , làng xóm nhỏ , cây trái bắt đầu loe hoe . Chúng tôi đi trong những hàng phi lao mới trồng lẫn những cây phi lao chồi, cây dừa chồi gộc ghệch . Một thời bom pháo chặt đổ cây mà có những cây không chết , nó bật chồi sống lại , xù xì  , gộc ghệch , đứng trân trân giữa sóng và gió . Không còn tìm ra hố bom hố pháo . Bởi cát trắng như có khả năng tự khoả lấp vết thương . Rau muống biển bò loang , trổ hoa tím lên những vết sứt sẹo của mặt đất một thời không bình yên . 

Chúng tôi qua một  cánh đồng hoang , đó chính là nơi diễn ra trận đấu xe tăng ngày nào . Bây giờ một khu đô thị mới đang hình thành . Nhà nghỉ công đoàn , nhà hàng phục vụ cho du khách đi tắm biển khang trang còn tươi màu sơn trong nắng . Quảng trị đang đầu tư cho Cửa Việt hàng ngàn tỉ đồng để thay da đổi thịt vùng đất có quá  nhiều kim loại trong cát này . Cảng Cửa Việt hôm nay hãnh diện về khả năng đón tàu trọng tải lớn cập cảng và khối lượng hàng hoá bốc dỡ qua đây ngày càng cao . Những con tàu ra vào cảng rúc còi trong bình yên của biển . Đồng đội tôi nằm lại đây chắc cũng mát mẻ hương hồn vì sự giàu đẹp đổi thay của nơi mình đã hi sinh . Ngoài xa , những con thuyền cá thư thái trên sóng trở về . Nơi ấy một thời tàu chiến Mĩ  nhung nhúc hoành hành  điên cuồng nã pháo vào đất liền , dội pháo lên thành Quảng trị , lên thị xã Đông Hà . Người Cửa việt hứng chịu tiếng xé tai của pháo biển suốt bao năm dòng .

Xuống xe , ngồi trên đụn cát ngắm biển cửa Việt , lòng nao nao nhớ Phạm hữu Lượng , Nguyễn Văn Luyện bạn cùng khoa khi xưa , những đồng đội mãi nằm lại trên vùng cát này . Những Sinh viên khoa Chế tạo máy từng nhiều ước mơ ước một ngày nào đó chế tạo những cỗ máy , con tàu cho đất nước . Xương máu các bạn tôi tan vào nắng gió Quảng trị khiến cát phau phau nhức mắt  . Tiếng còi tàu vào ra bến cảng như có tiếng hú vọng từ quá khứ , đó là tự mình huyễn hoặc đó thôi để nhớ những dũng sĩ trung đoàn 48 , 64 sư đoàn 320b vùi mình trong cát nóng để làm nên một chiến thắng , để lại sự  hãi hùng cho lính TQLC Mỹ . Những địa danh Lâm xuân , Mai xá thị , với tiểu đoàn 47 Vĩnh linh quả cảm .  Những Gio Mỹ  , Gio Hải ...và những người mẹ ở Cửa Việt đã nhường hầm cho bộ đội , vừa động viên các con  mang súng to ra lòi cát cửa sông phục kích bắn tàu chiến Mỹ . Nhìn những người dân đi làm ruộng ở Gio Linh tôi không biết là trong những người dân hiền lành kia đâu là nữ du kích Nguyễn Thị Cúc từng cùng đồng đội diêt cả trung đội Mĩ năm nào . Xã đội trưởng Nguyễn Văn Mẫn của Gio Hải bây giờ sống ra sao ?  Con người đã đánh chìm tàu chiến 1200 tấn của giặc . Khúc sông Cửa Việt hiền lành kia , nơi đã từng có một thế trận Bạch Đằng vào ngày 4/3/1968 . Ngày ấy người du kích Nguyễn Ngọc Lễ đã học theo cách của cha ông mình dùng tre hóp buộc chùm thả xuống sông theo hình dích dắc , vạc cọc tre nhọn cắm xuống sông để co cụm tàu giặc lại mà nổ súng. Hôm đó trong mớ tàu dính đạn có một tàu chở dầu bốc cháy và biến khúc sông cửa Việt thành một dòng sông lửa . 
Bây giờ , trong mỗi bài lịch sử  mỗi trang sách giáo khoa ta thấy như còn mắc nợ với bao người , mắc nợ với sự thật lịch sử mà  ta đang rất dễ lãng quên vì mưu sinh thường nhật . Dù ta có trót quên ghi lại cái thế trận Bạch Đằng trên sông cửa Việt ngày nào nhưng với đối phương chắc là nhớ đời , bởi khoa học cao siêu , vũ khí tối tân là thế mà bị thiêu cháy trên một cửa biển nhỏ nhoi bởi một đội du kích chất phác hiền lành , có cả phụ nữ . Thật khâm phục cho dòng sông này , cửa biển này vì triền miên trong lịch sử nó ngẫu nhiên  luôn là nơi tâm điểm ác liệt của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm . Nó lại luôn là nơi gianh giới của sự tranh chấp của nhiều cuộc  chiến tranh 
  . 
 Một vùng đất trống chỉ có cát , không đồi núi  , không rừng cây mà bộ đội và du kích bám trụ suốt năm  này qua năm khác để đánh giặc , để  sống và sinh sôi . Một thời dưới sông thì đặc công đánh tàu , trên bờ thì du kích và bộ đội đánh địch . Đất  trời và sông biển vần vũ những bom và đạn . Chỉ có cát và nắng thế mà xe tăng quân giải phóng đột ngột xuất hiện như những thiên thần để rồi trận đấu tăng còn vang mãi trong kí ức những người lính tăng thiết giáp ngày nay .


No comments:

Post a Comment