Mùa đông 1969. Lần đầu tiên tôi biết rét Thái nguyên. Thật ra thì cũng
như rét Yên bái, Phú thọ thôi nhưng cứ ấn tượng bởi câu thơ Tố Hữu nên
ai cũng thấy Thái Nguyên rét hơn. Phải nói cụ Tố Hữu giỏi. Cụ cho nhiệt
độ vùng chiến khu Việt bắc giảm đi 1, 2 độ C dễ ợt. Mà có cái rất nhớ,
nhớ như đóng đanh vào đầu là cái màu sám sỉn của Thái nguyên. Cỏ úa đến
tái oằn oặt khiến cả quả đồi cứ một màu giống như đuôi chuột chết. Đồi
bạch đàn gầy xác xơ vật vờ trong gió bấc. Đến cả những lùm cây sim chịu
kham khổ là thế mà cũng úa vàng những mảnh lá nhỏ như cái mai cua chết
nắng. Chuyện hôm nay tôi không kể về rét mà là chuyện khác. Chuyện về
cái váy đàn bà mà lần đầu tiên tôi được nghe gọi là cái Mấn. Nhờ cái rét
năm ấy mà cái Mấn ấn tượng mãi tới giờ.
Khóa tôi tập trung
từ tháng 8, 9 năm ấy. Hết cắt tranh chặt nứa, dựng nhà, dứng tường, học
chính trị tới cuối tháng 11 thì khai giảng. Vào học một cái là như con
lợn thả lã ngoài rừng nay cho vào chuồng bí chân bí cẳng, đói ăn, sống
kỉ luật khiến anh nào cũng thấy mình chuyển trạng thái một cách khắc
nghiệt. Khắc nghiệt nhất là đói.
Đã đến khóa thứ 5. Dân địa phương
quanh trường Đại học Cơ Điện cũng đã 5 mùa kinh nghiệm sống cùng sinh
viên. Hễ khóa nào mới vào trường thì ấy là lớp người còn rủng rỉnh tiền.
Tiền cha mẹ anh em cô bác cho nên sẽ rất vung tay. Lại nữa, mới ở nhà
ra đi đói lắm nên máu ăn quà tợn. Khốn nạn, quà cáp chi cho cam. Toàn
bánh sắn, sắn luộc. Chờ mãi tới chủ nhật đi bộ 5 cây số xuống cây số
11đường số 3 có cái cửa hàng ăn uống mua cái bánh rán bèn bẹt ăn xong
rồi đi bộ về. Cao cấp nhất là mì không người lái bà Bút người HN sơ tán
lên. Loại ấy chỉ mấy anh cán bộ đi học dám xài còn học sinh phổ thông
không mon men vào nhà bà Bút. Sáng sớm, sương chưa tan lớp phó đời sống
gõ kẻng dậy thể dục đã thấp thoáng mấy bà gánh bánh sắn đứng ngoài sân.
Ôi chao đời tôi sau này nhìn bao nhiêu quán sá, nhà hàng không có cái
thèm nhỏ rãi như ngày xưa nhìn mấy chị nạ dòng, mấy bà quê mùa gánh bánh
sắn vào khu đồi tôi ở mùa đông 1969. Thế rồi nhoáng cái lũ trò xúm đông
xúm đỏ quanh cái rổ lót lá chuối nghi ngút khói. Đứa xoàng thì làm một
hào khúc sắn, đứa khá hơn làm hai hào hai khúc. Vài cô người thành phố
thập thò xúi nhau mua bánh vào cái ca có lá cờ Ba nhất rồi chạy vù về.
Cái bánh bé như quả bóng bàn trong có đậu xanh thơm ưng ửng. Tôi ít tiền
mỗi tuần liều một hôm sắn luộc còn thì đứng nhìn. Khói ở mấy cái rổ sắn
luộc thơm lâu thế, thơm đến tận lúc cắp sách vào lớp.
Vài hôm sau.
Một sáng bửng mù tinh cửa lớp tôi có một bà già chừng gần bẩy mươi (có
thể chưa đến nhưng chắc vì bà ăn mặc không giống mấy bà trong xóm nên
già hơn tuổi) trùm khăn mỏ quạ, áo bông đen, mặc váy đen. Lúc bé tôi đã
thấy các cụ già quê tôi mặc váy như thế. Đi làm đồng lúc cần tè các bà
chỉ cần doãng chân ra là tồ thẳng xuống ruộng, sủi bọt lên thật tự
nhiên. Mấy đứa con gái lớp tôi cười hinh hích nhìn bà già rét run cầm
cập đứng bên gánh bánh sắn. Này! Bánh của bà gói lá chuối rất to làm
bằng sắn tươi sát bột. Hai hào mà ăn no. Đông lắm, chúng nó nhao vào
loáng cái hết. Ngày hôm sau lại thế bà cũng đến sớm. Rồi cũng nhoáng cái
gánh bánh của bà mặc váy đụp hết veo. Vài ngày sau đấy bà vẫn gánh hai
rổ bánh nhưng giờ thì lá chuối nhiều lên bánh thì bé đi nhưng vẫn hết.
Bà già vất vả để trông chừng đám học trò kẻo bỏ sót cô cậu nào chưa trả
tiền, bà gạt bà hét: chú ni cậu nì trả chưa? Hóa ra bà là người miền
trong. Một bà già miền trong bán bánh ở Thái nguyên chắc là ra ở với
con? Con làm công nhân Gang thép? hay bà là công nhân về hưu? Chịu chả
ai biết. Nhìn bà cứ thương thương, bỗng dưng nhớ mẹ nhớ bà nội ở quê
quá. Rồi có một ngày đám học trò đã quen bà hay trêu vui bà, có đứa cắm
cái đũa mỗi đầu một cái bánh gánh ra ngoài bà la lên lại bỏ một cái
xuống. Chả hiểu có ai kéo lật cái rổ thế là bánh lăn ra bãi cỏ. Bà hét
toáng lên the thé. Bà nói rất nhanh giọng quê miền trong . Chả hiểu bà
nói gì. Thằng Tăng Tiến người Hà Tĩnh cười phá lên. Tôi hỏi: bà ấy nói
gì thế? Nó bảo bà kêu: Mua bán thế này thì có mà ăn hết cả mấn. Mấn là
gì? Nó bảo Mấn là váy của bà ấy. Mấy đứa đang cười chợt im bặt. Bà già
rơm rớm nước mắt miệng phù phù phủi mấy tấm bánh dính đất và lá bạch đàn
khô. Rồi bà gánh vội rổ bánh còn dở ra về. Cuối tháng chạp rét càng
đậm. Sương muối buốt thon thót. Những ngọn đồi bạch đàn nơi trường tôi
càng xơ xác. Mấy tuần nay không thấy bà già mặc Mấn bán bánh nữa. Bà ấy
ốm rồi hay sao? Hay cháu con không cho bà phải đi làm cái việc vừa vất
vả vừa rét mướt? Tự nhiên chúng tôi thấy nhớ bà già khu bốn áo bông cũ
mặc váy đụp mỗi sáng trước cửa lớp.
Tôi đi bộ đội. Những ngày hành
quân qua khu bốn đầy bom đạn tôi lại gặp những người mẹ mặc váy đụp như
thế. Trên đồng lúa cái áo tơi choàng lên người các mẹ che không kín cái
váy nhiều mảng vá ố thâm . Các mẹ hái cho mớ rau, cho các chú vài cành
củi rồi khoác áo tơi đi ra đồng trong cái rét mùa đông thời đạn bom giặc
giã. Tôi chợt nhớ bà già mặc Mấn trên Thái Nguyên đứng bên rổ bánh sắn
nghi ngút khói năm tôi mới vào đại học.
2013
No comments:
Post a Comment