Saturday, March 28, 2015

CHUYỆN LÀNG ( Phần 2)



Người ta bảo : một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.

Cái hàng phở, hàng bánh cuốn giữa xóm nhà tôi là nơi kiểm chứng và ghi danh những cá nhân có máu mặt ở làng. Thời bé tôi biết mấy thầy giáo cấp 1, mấy ông buôn nâu mây và mấy anh công khu mới vào hàng phở ( Công khu là thợ chèn đá đường tàu hỏa ). Trông nể lắm. Khoan thai tự tin thả đít xuống cái ghế băng đen nhẻm ám mùi khói. Con gà luộc sẵn, treo chổng ngược cạnh bó hành củ tươi,  trắng xanh như đon mạ . Nước rùng trong veo thơm sang tận tràn ruộng giáp đường tàu. Anh Nghi Vừng dậy vỡ lòng ngồi hàng phở thách đố với mấy ông Công Khu ăn hết một con gà và cả bộ gan gà. Thế là anh giáo Nghi mang cái tên Nghi Gan gà. Anh giáo nhập ngũ năm 1960 rồi phục viên năm 63. Được hai năm lại tái ngũ vào B4 đánh A Sầu dính bom na pan cháy hết mặt mũi, cháy mất cả một bên tai về làng chả ai nhận ra. Chỉ khi nói tôi là Nghi vừng đây thì người làng à lên : Anh Nghi gan gà. Anh Nghi gan gà ! Anh giáo Nghi cười. Như một người hành tinh khác đến thăm làng .

Làng nào cũng có khúc đồng dao riêng của nó. Đồng dao cho trẻ con và cho cả người lớn. Chả cần lên gân lên cốt về đồng dao hay thương nhớ đến úp mặt vào sông, đồng dao nào cũng là của chung cho mọi thằng người. Làng tôi có xóm Dậm. Xóm ấy ở ria đầm Hà. Họ ở trên đồi cọ cổ thụ soi mình xuống đầm nước mênh mông. Đi vào xóm ấy phải qua một cái đập bằng đất gọi là bờ đắp. NGàn ngạt những bụi tre và nương cọ. Tre cũng rậm mà cọ thì cao một xóm nhà toàn những cái tên nổi đình đám về lãng tử quê tôi. Thời tôi trẻ con tôi đã biết xóm Dậm nhiều chị đẹp gái lắm. TRai làng nhòm ngó gái xóm Dậm mà chả lấy được đâm ra tức mà làm thơ viết ở đình làng .

…Nhà ông Vang có bụi tre to 
Có cô Năng lớn chẳng cho lấy chồng 
Ai ai đến hỏi cũng không 
Có anh Ngoạn đến là bằng lòng ngay ..
Đến giờ tôi cũng không thấy họ về làng, chả biết anh Giáo Ngoạn đưa chị Năng đi phương trời nào .
  
Ngồi tè he ven đường đất đỏ thả trâu ăn dưới ruộng mới gặt. Lũ trẻ chơi đủ thứ trò. Cứ nhìn bọn con gái chơi chuyền mà sốt ruột. Tay tung đến đâu mồm đưa đến đấy cái đầu chúng nó thì cúi xuống ngửa lên như con gật gù .. 
que mốt /que mai 
cái trai/ cái hến 
Con nhện/ giăng tơ 
Quả mơ/ quả táo 
Cán gáo/ sang đôi 
Đôi tôi/ đôi chị 
Đôi cành thị
đôi cành na
đôi lên ba 
Rồi mấy đứa đứng ngoài hô theo đứa trong cuộc 
Ba ta 
ba mày 
Ba cái cầy 
Một sang tư …Nhìn quả chuyền bằng quả bưởi non tung lên hạ xuống chóng cả mặt nghe đến cái đoạn 
Năm rau Răm
Năm lên sáu… 
Thằng Vân đá tung cả bàn que chuyền. Tụi con gái chóe lên Đ… mẹ Vân Quí nhá, Vân Quí nhá. Bà Quí mẹ thằng Vân đang đon rạ dưới ruông kêu váng lên : Ối Vân ơi là Vân ơi mày để cho chúng nó réo tên cái nhà mày ra kia kìa …Thằng Vân dứ quả đấm về phía con THành rồi chạy đi. Tàu khách về , cả lũ quên phắt cái chuyện chửi nhau chạy ra áp đường tàu đố nhau tàu có mấy toa. Lũ trẻ reo hò khi toa cuối cùng vút qua. Thằng thắng cuộc được cõng một đoạn từ gốc đa ra tới hàng phở Bủ Nộm 
Khoái nhất là nghe tụi con gái chúng nó chửi nhau. Lũ con trai chúng tôi đứng ngoài xuỵt thêm vào thế là chúng nó càng hăng. Đứa bên này bờ ruộng rẩu mỏ về đối phương bờ ruộng bên kia mà ra rả : "  con đĩ đầu đanh / nấu canh củ tỏi / Mẹ chồng chưa hỏi / đã đòi làm dâu / Chồng chưa đi câu / đã đòi xách giỏ / Chồng chưa đi mò đã đòi rang tôm "
Hồi ấy chả hiểu mô tê gì mà chúng nó cứ tức tối cái bài chửi ấy thế. NHớ nhất bà Quí mẹ thằng Vân chửi mất gà. Chao ôi bà ấy có giọng mới vang làm sao. Vang và chua. Mà chửi nhau thì cần nhất là giọng chua. Mấy nhà bên cạnh nghe mà ấm ức mà tức tối. Cứ chập tối là bà ấy tru lên: "Cha tiên sư bố mày, mày đi đằng xuôi mày chết đằng xuôi mày đi đằng ngược mày chết đằng ngược, mày lấy gà của bà mày hóc xương be mày đè xương cánh, mày cắm cờ xanh đầu ngõ mày cắm cờ đỏ đầu giường, con gà nó thành ma vương nó làm cho nhà mày tù đâm chết chém. …" Chửi đến nỗi chó trong xóm sủa ong óc mà bà ấy vẫn chửi. Thằng Vân kéo mẹ nó về mẹ nó vằng cho cái xuýt té ngửa .
  
Tính theo dọc đường tàu về phía ga có hai xóm. Đấy là xóm cầu Đất và xóm cầu Tây . Cái tên nó đã chỉ chính xác tình hình địa lí giao thông rồi . Xóm Cầu đất có cây cầu lát bằng thân cây cọ rồi đổ đất lên . Còn xóm cầu Tây là xóm ở gần cây cầu trên đường tàu hỏa . Cầu này Pháp xây dựng đường tàu hỏa mà có cầu . Đích thị là cái cầu thằng Tây làm .

Hai xóm tính tình khác nhau rõ rệt . Cầu đất dặt những nhà chuyên đơm đo đánh dậm . Mùa đông thì soi cá ngủ cá cóng . Mùa hè thì be bờ lại đơm đo . Chuyện đo đơm là cả một thú vui mà khoa học đáo để . Thời ấy những ruông sâu chỉ cấy một vụ mùa . Từ tháng 11 dương trở đi bỏ trắng . Cá tôm nhiều lắm , đỉa cũng nhiều như cá . sang mùa hè nắng oi ruộng rạ đã thối ai muốn be cái ruộng nào chỉ cắm cây nêu lên đó xí phần . Xí phần rồi là không ai xâm chiếm nữa . Thường thì tháng tư tháng năm ngập nước bốc bùn be bờ cho cao rồi mở 4 cái chổ bốn góc chừng một mét . Rang thính bằng cám gạo cho thơm , chập tối trộn với đất khô ném xuống ruộng . Mà rắc thính cũng phải nhẹ nhàng đừng có ùm ùm cá bỏ đi hết không vào ruộng . Cá theo bốn cái cửa vào ăn rất nhiều . Nửa đêm bịt bốn cửa lại đặt cái đó ở đấy . Cá tôm muốn chuồn ra là chui vào đó . Đơm đó có cái thú vui là ngủ ngoài bờ ruộng mà trông đó . Đêm khuya ngủ quên rất dễ bị người khác đi đổ đó của họ tiện thể họ đổ luôn của mình . Hồi tôi mười một mười hai tuổi đã có ruộng đo đơm riêng rồi . Mẹ tôi không cho đi ngủ đêm trông đó , nhưng tôi thích đi theo các anh lớn ngoài đầm Hà . Đêm , trải mấy tầu lá cọ trên bờ đầm tán phét nghe lõm tõm cá quẫy vui đáo để . Đi ngủ ngoài đồng trông đó chỉ để nghe các anh lớn nói chuyện đàn bà chuyện tiếu lâm . Có những chuyện nghe đến lớn mới hiểu . 
Người Xóm Cầu đất hiền hơn xóm Cầu Tây . Bố tôi bảo , xóm ấy ngụ cư . Họ dưới xuôi lên , quen chạ người nên họ khôn . Hỏi chạ người là thế nào bố tôi bảo là đông người thì phải va chạm nhiều mà va chạm nhiều thì phải chống chọi nhiều nên khôn . Ra thế , sau này về Hà nội thấy đúng . Càng chạ người , người càng khôn . Giống như người hàng chợ mà nhất là chợ to như Bắc Qua Đồng Xuân họ khôn dã man . May mà mình ra Hà Nội sống chứ nếu không thì đen đủi cóc cáy như thế này sao mà mở mặt ra được . Hòa bình mới lập lại vài năm là được xem phim . Điện ảnh đi về vùng sâu vùng xa . Tôi nhớ lắm , lần đầu tiên tôi được xem chớp bóng là năm 1958 . Bộ phim đầu tiên tôi xem là phim Liên xô . Ngọn lửa không bao giờ bị dập tắt . Từ vài hôm trước loa loa váng cả xóm làng . Tôi nhớ như in giọng anh chớp bóng đi phát thanh các làng …A lô a lô . Thưa toàn thể đồng bào đội chiếu bóng lưu động số 20 chúng tôi về đây phục vụ đòng bào hai bộ phim . Bộ phim thứ nhất : ánh bình minh . Bộ phim thứ hai Ngọn lửa không bao giờ bị dập tắt . Phim chiến đấu của Liên xô . giá vé người lớn một hào , trẻ em năm xu . A lô a lô . Thế là hôm sau thanh niên làng cử người đi khiêng máy nổ . Chao ôi , nó chạy xình xịch phả khói khen khét thích thế . Mấy ngày đó làng xóm chộn rộn nôn nao chỉ mong chóng đến tối . Hôm chiếu phim các ngả đường làng trên xóm dưới người , gìa trẻ em tấp nập , họ đến sớm lắm trẻ con mang cả đuốc để lúc về soi đường . Người lớn mang cả chai nước cho con lại còn lôi cả tàu lá cọ kê đít ngồi . Nhà tôi giữa làng chả phải đi xa , nhìn lũ bạn xóm xa mình cũng thấy tự hào , tự hào vì nhà ở gần bãi chớp bóng . Khi Máy nổ xình xịch rồi đèn bật lóe sáng cùng với tiếng reo òa lên của dân làng . Họ căng dây khoanh bãi đễ soát vé . Một vé năm xu phải mất một giỏ cua bán ở chợ Đan Thượng mới có . Đứa nào không bắt cua thì một gánh củi . Dậm dịch kiếm tiền từ hôm trước . Tôi cứ nhớ cái ánh đèn điện ở cổng xé vé bãi chiếu bóng làng tôi thủa xưa . Nó như một cái sự khai phá những cái đầu u mê của làng mình , nó bắt đầu cho sự ước mơ thèm khát ra đi của tôi và các em tôi . Thú thật nhờ có cái đội chớp bóng nên mới bé tôi đã thuộc những bài hát thuộc loại đi cùng năm tháng . Từ lúc chiều họ mở thật to những bài hát trên 2 cái loa to như cái thùng tôn treo trên lưng chừng một cây tre . Chiếc khăn Piêu , rồi Buổi sáng trên nông trường , lại cả Bên ven bờ Hiền lương mấy năm sau bài Tình ca của Hoàng Việt cả làng tôi thuộc . Mấy chị thanh nữ đi cấy ruộng đít chổng lên trời í ửn hát Tình trong lá thiếp , trông mấy chị nhấp nhổm theo nhịp hát nghe mà si mê .
  
Cho tới bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao quê mình có truyền thống hát Xoan mà mình chả biết tí Xoan ghẹo nào cả. Chả nhẽ Xoan nó chỉ đến Hưng Hóa Tam nông là hết đường đi ngược? Nhưng mười tuổi tôi đã biết hát chèo ( Ngạc nhiên chưa ?) . Chèo chả riêng cho một tỉnh nào, nó sống với cư dân lúa nước đồng bằng Bắc bộ lâu lắm rồi nên người quê tôi biết hát chèo cũng là dễ hiểu . Nhưng, cho tới năm 1962 khi có chủ trương đưa người vùng xuôi lên khai hoang miền ngược thì chèo mới rộ lên và thế là hát chèo như tự thân trong mỗi con người làm ruộng miền bắc phải có . Ngày ấy đồng bào Duy Tiên - Hà nam lên quê tôi . Bồng bế đìu díu đến là thương . Nhưng sự khổ ải với họ không lâu , họ lao vào làm đồi rừng làm ruộng với quyết tâm phi thường . Dân quê tôi từ ngạc nhiên đến dần dần bị cuốn hút theo cái tính chịu khó của họ mà làm ăn . Dù khổ ải lam lũ đến mấy , tối tối các bác các chị Duy Tiên lại tập trung ra sân kho HTX để hát chèo , tập diễn những vở chèo cổ mang từ dưới xuôi lên . 
Lần đầu tiên được ngồi xem Trương Chi, xem Lưu Bình Dương lễ xem Cây đa bến Cốc … nước mắt cứ dàn dụa ở sân kho HTX. Trong những là tom chát các chị các bà ban ngày làm cỏ lúa làm nương sắn hóa thân vào thị tỳ công chúa vào anh đồ ...cảm động đến thế . Lũ trẻ con chúng tôi bây giờ cũng hát : Gà rừng, hát Sẩm soan. Quân tử vu dịch... Tụi con gái thì thích mấy điệu lới lơ , đào liễu , Xắp qua cầu, sa lệch … Lớn lên đi bộ đội, trên đường Trường sơn cứ nghe cái đèo của chính trị viên hát chèo đêm khuya là nhớ quê đến nao lòng. Lúc ấy hình ảnh các chị áo cánh nâu ngực căng chim gáy thấm mồ hôi mê mải diễn chèo trong lúc máy bay Mĩ gầm gào trên đầu. Nhớ biết bao, thấy quê mình thiêng liêng biết bao. Chuyện làng như một liều thuốc bổ cho người lính vượt Trường sơn đầy những bom và đạn. Chả có sự dậy dỗ nào cho người lính bằng nhắc tới chuyện làng, yêu làng yêu cha mẹ người thân mình. Người lính ra đi từ quê họ yêu làng yêu xóm yêu mẹ cha nguwoif thân ấy là điều họ hay nghĩ tới và thường trực trong đầu hơn là hai từ Tổ quốc .

 Trường cấp 1 Đan Hà của tôi có từ năm 1957 . Trước đó , lớp cha anh phải học tư thục Minh Đức hoặc phải về Ấm Thượng cách 10km . Ngọn đồi kề đường tàu hỏa rợp những cây xoan và cây nhội rất to . Tôi leo lên cái dốc đến là dài đầy sỏi , nhiều bụi về mùa hè và mùa đông thì đôi bàn chân đi đất đau thon thót vì những hòn sỏi ấy . Thầy hiệu trưởng già nói tiếng Pháp sen lẫn tiếng Việt với đồng nghiệp mỗi lúc hứng thú một điều gì đấy . Mùa đông thầy mặc áo ba đơ xuy và mũ nồi . Cả nhà thầy đều là giáo học và con cái đều đi xa hết cả . Tiếng gõ thước kẻ lên bảng , tiếng học trò ê a đọc bài và tiếng trống tùng … tùng ra chơi sao mà nhớ lâu đến thế . Ngày ấy cứ mỗi lần ngồi trong lớp nhìn chuyến tàu ngược Hà Nội lên là xôn xang những ước muốn rồi một ngày nào đó đi xa . Suốt đời tôi đi học từ cấp 1 đến lúc đi đại học chưa bao giờ tôi được học trong căn nhà xây . Tôi chỉ biết đến lớp học lá cọ với những cái bàn lung lay rây đầy mực tím . 50 năm sau tôi vẫn nhớ những dòng chữ mà ai đó viết trên mặt bàn bằng thứ chữ cứng cáp , tôi đoán là của các anh lớp 4. Một bài thơ thế này .
Em là con gái Minh Sơn 
Bóng em thấp thoáng sớm hôm trên đồi 
Nhanh tay hát búp chè tươi 
Gió đưa thoang thoảng ngát mùi hương bay 
NHựa chè đen nhuộm bàn tay 
Ửng hồng đôi má em say hương chè .
  

Những năm ấy xã tôi Đan Hà được đổi thành xã Minh Sơn . Phải đến năm 1964 mới đổi lại là Đan Hà như thời xưa cũ . Không biết bài thơ ấy của ai , các anh chị lớn học từ ai ? Chỉ biết đọc rồi nhớ rồi thấy mình yêu làng mình quá . Yêu đến nỗi lấy cái đinh 5 phân vạch dưới bài thơ ấy tên mình Nguyễn Trọng Luân ( kiểu như là đạo thơ) ước ao một ngày nào đó cũng làm được một bài thơ về làng mình như vậy . Ao ước ấy suốt đời đến giờ vẫn không làm nổi .

No comments:

Post a Comment