Monday, July 6, 2020

THÁNG BA TÂY NGUYÊN.

(số 2 )
Lời tác giả :
Tôi đã viết Tháng ba Tây nguyên số 1 ở đây
và đây là sô 2. Sẽ còn một bài số 3 nữa .

***************************
Đã sắp vào tuổi bảy mươi mà cứ tháng ba đến lại nhớ về Tây Nguyên. Nhớ nền trời xanh đến thắt ruột, nhớ màu rừng vàng óng ót và màu nắng có bụi đất đỏ ba zan. Tháng ba năm 1975 thắt thẻo nhớ, nhưng nhức buồn, rạo rực bước chân chiến trận.
Chiến tranh lùi xa quá rồi người lính thì cũng già rồi , Nhưng tháng ba thì cứ mỗi năm lại tới và năm nào cũng nhớ về những ngày 16, 17, 18, 19 tháng Ba năm 1975 . Cái ngày 18,19/3 năm ấy tươi nguyên, nhoi nhói trong tâm hồn. Cũng như những CCB về lại chiến trường xưa, tôi trở về đây không phải kiếm tìm vinh quang, gặm nhấm gì nơi quá khứ, chúng tôi trở về vì mắc nợ với quá khứ, mắc nợ với đồng đội và cả những linh hồn của những con người xấu số.
17/3/1975. Tiểu đoàn 7 đánh Buôn Hồ đã mấy hôm. Lúc ấy bọn mình vẫn đang đuổi địch ở Chư Pao, Đạt lí. Phía Ban mê Thuột pháo vẫn ầm ịch. Máy bay địch nhùng nhằng trong
đốm trắng pháo phòng không. 14 /3/ 75 tiến đánh Cư Pao. Địch bỏ cả pháo rút chạy. Hôm qua 16/3 tiểu đoàn mình đánh nốt một đại đội công binh đóng trên đường 14 bắc Buôn Hồ. Bây giờ thì cả D8 và D7 nằm trong những cánh rừng cà phê phía bắc Buôn Hồ 2 km.
Trời nắng. Nắng tháng ba Tây Nguyên như mật. Hoa cà phê trắng muốt, thơm nức nở. Bàn chân sưng tấy lên vì những chặng hành quân rồi tác chiến liên miên từ hôm 5/3 tới giờ. Ngay chỗ chúng tôi náu quân có một đội xe của 559 thì phải. Lâu lắm rồi tôi nhìn thấy cô bộ đội miền bắc. Khăn bông chùm mặt, đội mũ cối, môi tím tái vì sốt rét. Chúng nó vác về một cây ghi ta lấy trên đồn Buôn Hồ. Tôi rúc vào ven rẫy cà phê bập bùng lừng phừng mấy bài hát Nga thủa đi học ngày xưa. Đồng đội có anh ngồi băng chân, lau súng mặt rười rượi buồn. Cô bộ đội ở đoàn xe lau mắt.
“Ơi người đồng đội gái. Quê bạn ở đâu? Bạn ở đợn vị nào? Trai tráng như chúng tôi đây mà trận mạc cũng làm cho bải hoải, thế mà giữa lúc chiến dịch đang hồi gay cấn có bạn ở
đây. Sao chẳng bỏ cái khăn bông cỏ úa trùm kín mặt ra. Tôi hiểu rồi, môi bạn tím ngắt vì sốt rét Tây nguyên. Da bạn tái đi vì thiếu ăn thiếu thuốc. Người đàn bà dễ nhạy cảm nhất ở chỗ
nhan sắc. Tôi nghe như đâu đây có tiếng mẹ tôi, tiếng em gái tôi tiếng các bạn tôi trên đồng quê miền bắc. Mãi về sau tôi nhớ khung cảnh bầu trời Buôn Hồ hôm 16 tháng 3 mà tôi ngồi chơi ghi ta trong rẫy đến thế. Pháo địch vẫn soèn soẹt trên đầu, mà tôi như thấy sự bình yên như ở quê
nhà”. Tôi bỏ đàn, thấy mình như có lỗi. Ba lô gói chặt rồi chả có việc gì phải làm. Giở cái ví lấy được hôm 12/3 của một người lính VNCH, có mấy tấm ảnh phụ nữ ra xem. Hình một người con gái mặc đồ tắm trên bãi biển. Mặt sau đề “Tình yêu bất diệt’- Nha trang mùa hạ 1971” Ôi soa mà thấy cuộc đời đẹp thế.. Bao giờ mình mới có tấm hình như thế này nhỉ. Rồi chợt nhớ: không được hữu khuynh.
2 giờ chiều. Lệnh phát ra. Tất cả hành quân. Ồn ào, vội vã tràn ra đường 14. CHân nặng chình chịch vì ba lô và đạn , lại lở loét nữa khiến khuôn mặt lính chỉ thấy nhăn nhó. Nắng vẫn vàng sau lưng, mồ hôi ướt nhoáng cả trên nòng cối 82, trên DKZ. Nhìn bọn hoả lực mà thương, chúng nó thập thiễng khiêng đế cối, rạp lưng vác bầu nòng 12,7 li... Xe ô tô ào đến chỉ có D7 được lên xe chạy ngược về hướng bắc. D8 lại hành quân bộ. Cứ thẳng đường 14 mà đi, mà chạy. Sao không cho bộ đội đi vào rừng nhỉ, địch cho máy bay oánh thì sao? Cán bộ D bảo kệ máy bay, đã có thằng E593, E234 lo rồi. Lại có xe chở tiếp số quân D7 đi còn
chúng tôi vẫn đi bộ vội vã. Kể từ lúc rời Buôn Hồ chúng tôi đã đi tới hơn chục cây số. Tôi nhớ ven đường có những cây thông to và những bụi lau cũng to. Trời tháng ba nóng như sấy ba lô. Hơi thở mà cứ như cốc nước sôi kê lên miệng.
Chừng 5 giờ chiều 17/3 đoàn xe bụi ngầu đỏ, lá nguỵ trang tơi tả quay lại đón D8. Thì ra là xe chạy cuốn chiếu. Ôi chao, chen chúc lên xe, tôi ngủ luôn. Chắc được chừng non hai tiếng đồng hồ giật mình vì pháo bắn. Nắng đã tắt, hơi bom pháo khét lẹt cả cánh rừng. Đạn rơi trên sườn núi đá khói ngèn nghẹt. Gần 7 giờ tối mà trời vẫn chưa tối. Rừng cứ hồng hồng cái màu rất sợ. Cái màu hồng trước khi tím sẫm lại. Tiếng nổ vang vọng bên này sang bên kia oang oang. Kệ, cứ cố mà ngủ. Đã hơn mười ngày tác chiến. Đi liên tục, không có một đêm ngủ, không có một nơi trú quân lấy nửa ngày. Chân sưng lên, mắt hõm xuống. Lúc nào cũng trong trạng thái ngẹn cổ. Nắng tháng ba và bụi đỏ nhuốm trên tóc. Buị đất đỏ chui vào họng vào mũi lính cứ dính khin khít, mắt đứa nào cũng hai cục rỉ to như con nhặng, đến khiếp. Xe đổ quân ngay chân ngọn núi đá cao ngất có một con suối rất đẹp. TRời sám quánh lại. Nghe đại bác nổ vang dội đập vào vách núi biết phía bên kia núi là Cheo reo. Pháo địch bắn qua núi chặn đường tiến của quân ta rầm rĩ. Cả tiểu đoàn không theo con đường chính nữa mà trèo vượt ngọn núi này lao tắt ra chặn ngay phía nam thị xã. Cán bộ nói trong lúc sang bên kia suối để leo lên núi , D9 đã đi trước., họ đang chặn địch ngoài đường rồi. còn D7 giờ này đang xuống núi núi, chỉ có chúng tôi bây giờ mới bắt đầu trèo, lúc ấy là 8 giờ tối ngày 17/3.

Bốn mươi năm sau, đã hai lần từng trở lại Cheo Reo, hai lần tôi theo các chỉ huy sư đoàn 320 dẫn vào Suối đá đứng nhìn ngọn núi sẫm xanh chắn ngang con đường từ Cheo reo đi Ban mê thuột. Trong tôi cứ bồi hồi về một đêm cắt đường leo núi ra cầu Cây Sung. Đêm ấy, súng đạn, ba lô thít chặt vào ngực. Có những lúc tưởng như không thể bò lên được, có những lúc muốn khóc quá mà không thể nào khóc được. Nhìn những tân binh ra trận lần đầu mà thương. Họ hưng hức rên rỉ mà không ra được nước mắt. Trong đêm có đứa gọi mẹ
ơi, bố ơi...

Mười hai giờ đêm chúng tôi mới lên đến đỉnh núi. Nhìn xuống thung lũng Cheo reo lửa đỏ rực, đạn vạch thành những đường đan chéo nhau đỏ vùn vụt. Cả thị xã bùng nhùng chuyển động những khối lửa. Trên cao nghe chỉ thấy tiếng súng lớn, nghe nói e48 họ đánh phía bắc thị xã rồi, ở đoạn Phú- Thiện, tiểu đoàn 9 bắn được nhiều xe tăng rồi. Mệt quá, mà không được nghỉ. Tối như hũ nút, lúc thì chui trong rừng cây rậm rạp, lúc thì tụt xuống vách đá hun hút.
Leo lên còn dễ hơn lúc tụt xuống. Tối như bưng mắt. Cứ tụt bằng đít. Đến lượt bàn tay bám đá toe toét máu. Liên tục cán bộ giục nhanh lên. Chậm là lực lượng địch chạy mất thì ra bã. Chẳng ai nói một lời, tôi cũng đang đi nhanh đấy, hành quân bằng chân, bằng tay, bằng cả đầu đấy thôi. Lính bộ binh mỗi người phải vác thêm một quả cối cho hoả lực. Cậu Chức người Thanh Ba Phú thọ lần đầu vào trận ôm quả cối 82 trước bụng mếu máo. Tay trái em trèo cây ổi bị gẫy từ hồi bé không ôm được quả đạn nó cứ tụt xuống anh ạ. Mình bảo nó đưa khẩu súng AK mình vác hộ. Lúc ấy nó mới khóc được. Khóc một lúc hình như nó khoẻ ra nó lại đòi lại khẩu súng của mình.
Trời sáng thì chúng tôi xuống chân núi. Cánh rừng từ đây ra đường 7 còn 8 km nữa. Rừng thưa, bằng phẳng hơn nhưng đầy đá và suối cạn. Cỏ mùa khô vàng hoe cao đến gối, rặt những loại cây có gai ô rô và khoọc. Tiếng súng nghe càng rộn rã, bộ đội chạy cuống quít, cán bộ giục rối rít suốt hàng quân. Suốt một đêm leo núi bây giờ lại chạy người cứ lủng lẳng muốn lăn quay ra đất. Thỉnh thoảng đại bác lại xoe xoé qua đầu. Có tiếng pháo làm cho lính khoẻ ra, chạy được. Còn cách đường 7 chỉ 1 cây số thì D8 đụng địch. Từ trong rừng, nhô ra cả lính và xe tăng bị đánh ngoài đường chạy dạt vào. Có thằng không kịp quăng ba lô. Chúng tôi nổ súng đánh ngay. Bọn 12,7 giá súng nhanh thế, nó nổ cứ đùng đùng. Bọn địch chay ngoắt quay lại. Câu rừng đổ dàn dạt.
. B40, B41 nổ loạt đầu chả có xe nào cháy. Xe tăng địch quay ngoắt hướng khác bỏ chạy. Cây lá đổ rào rào. Cành cây kêu rôm rốp có tiếng la het. Một thằng B40 phang một quả vào tụm địch 5, 6 thằng. Cả lũ tử thương hết. Lệnh Tiểu đoàn truy kích ngắn. Mình và tiểu đội vừa chạy vừa bắn. Đội hình tao ngộ chiến chả biết đau là đơn vị mình cứ thấy địch là bắn.
. Cánh rừng cỏ đẹp thế đã mươi cái xác lính. Giá vào lúc khác bọn mình khốn đốn vì xe tăng rồi nhưng vì D9 bắn cháy nhiều xe ngoài đường quá nên nó hoảng loạn, chạy thục mạng vào rừng. Khổ nỗi cánh quân này chạy vào đúng sở chỉ huy trung đoàn 64. D8 được lệnh bố trí đánh địch trong rừng bảo vệ E bộ và khối trực thuộc. Tổ chức trận địa. Chả kịp đào hầm nữa. Kiếm cái mà đổ vào bụng đã. Nắm cơm từ chiều qua khô như quả bưởi Đoan hùng ngày tết chưa kịp gọt. Nước thì hết. Nấp sau tảng đá, bụi cây lính ta làm bữa sáng. Ngoài đường đánh chắc dữ lắm. Tiếng B40, tiếng lựu đạn, phóng lựu oà lên lúc rộ dạt lúc ắng xuống và tiếng gầm rú của xe tăng. Phía nào cũng khói, cũng la hét. Máy bay gầm rú thả bom phía bờ sông phía đông trận địa bọn tôi.
Cho tới chiều, đã mấy đợt đánh bằng súng bộ bịnh những cánh quân tràn vào cánh rừng E bộ và các C trực thuộc. Lính bộ binh D8 vẫn chưa được lệnh ra đường. Tranh thủ lúc truy
kích chúng tôi kiếm tìm ba lô của địch. Tôi vớ được mấy bao thuốc basto, tựa lưng vào gốc cây hút mê mải. Lại moi được mấy tấm ảnh trai gái miền nam, trong đì đùng bom pháo
xem mà thấy nhẹ cả lòng.
Tôi mò xuống con suối cạn khô đầy đá và bướm trắng. Không thể tưởng tượng nơi này đông người thế. Hàng trăm, hàng ngàn người dân di tản thất thần, nước mắt ngắn dài ôm nhau chúi vào từng hốc đá. C24 quân y đang tất bật đun nước tiêm cấp cứu cho dân. Băng bó cho những người bị thương. Có một cái lều căng mấy tấm ni lông bộ đội trong đấy oe oe tiếng trẻ khóc. Gặp Đinh ngọc Sỹ C24 nó bảo, bọn y tá đang đỡ đẻ cho dân. Tôi vội vã chạy về phía C mình. Đằng sau tôi tiếng khóc tiếng rên la não ruột.
Cái lòng suối cạn ấy chẳng qua là một đường phân thuỷ. Đầy đá cuội to như quả bưởi. Hòn đá nào cũng có thể làm đá nén vại cà được, đều nhau, nhẵn hứn. Chẳng có một giọt nước, chẳng có một ngọn cỏ, được cái nó sâu và dài đầy cát vàng rất sạch. Cái rãnh khổng lồ ấy chứa hàng ngàn con người tránh bom tránh đạn. Cái rãnh người ấy chứa hàng ngàn mảnh đời bất hạnh cho mãi về sau này. Tôi chỉ một thoáng chứng kiến rồi phải quay trở về vị trí chiến đấu của mình. Cái ngày 18/3 ấy dưới tiếng gầm rít của bom pháo tôi mò mẫm đi tìm cái ăn. Tôi khom người liều lĩnh chui vào một bụi le khô vàng gục đầu xuống một lõm suối. Mấy tên lính bỏ chạy. Ba lô nằm lại lẫn những mảnh bông băng. Tôi dựa lưng vào bờ đất dưới bụi le giở ba lô của địch bỏ lại. Tiền VNCH, thuốc lá, thuốc tây, những gói cà phê tan bé như gói muối trong túi mì tôm bây giờ lần đầu tiên tôi thấy.. và một xấp thư. Tôi cuộn hết xấp thư và mấy bao thuốc lá rồi lom khom bò ra chạy về phía C mình đang chốt chặn. Nấp sau một gốc khoọc giở thư lính VNCH ra đọc. Đến bây giờ tôi vẫn hình dung ra nét chữ của người vợ lính ấy, như nét chữ những người con gái miền bắc yêu thương nhớ nhung người chồng ngoài chiến trận.
“... Qui Nhơn ngày... 1975
Anh rất yêu thương. Mấy rày nghe đụng độ trên cao nguyên mà em lo mất ăn mất ngủ luôn. Anh có thường không? Có phải hành quân không?... Cầu trời phật ông bà trên cao anh mau chóng mà về với ba má và em. Cầu cho đất nước mình hết giặc giã anh ơi...” Trong cái ngày đang đánh nhau ấy thế mà tôi đọc thư đối phương rồi nước mắt ứa ra như lá thư của mình vậy. Tôi gấpvội tất cả thư nhét vào túi quần lau nước mắt lặng im. Tôi đã vi phạm kỉ luật. Mãi về sau tôi cho rằng mình may mắn không dính đạn. Nếu tôi hi sinh họ sẽ moi trong túi quần tôi có những lá thư ấy... Họ sẽ nghĩ Đảng viên không thể như tôi. Rồi trong những ngày tiếp theo tôi còn nhiều lần đọc nhiều lá thư của lính VNCH nữa, cả những trang sách học trò nhặt được trên đường.
Chừng 5 giờ chiều, D8 hành quân gấp ra thay trận địa cho D7. Chúng tôi chỉ mất 15 phút là ra đường. Chúng tôi ra cây cầu gẫy. Đó là cầu Cây Sung. Cay cầu ùn lại hang chục xe cả tăng thiết giáp và xe Đốt xe GMC. Xác người la liệt. Đoạn đường 4 km từ đây lên cầu Sông Bờ đầy xe cháy., Nhiều cái đang cháy, đạn ở xe tăng cháy vẫn nổ, D7 vừa bàn giao trận địa chúng tôi đã phải nổ súng những toán đich liều chết vượt qua cầu cây Sung.C7 bố trí ngay đầu cầu. Cây cầu dã gục thành chữ V xuống dòng sông cạn. Ở cái đít chữ V ấy là ba xe GMC chúi vào nhau.
Tôi gặp thằng Tạ Cư bạn tôi người xã Thụy Vân Lâm Thao ở ngay đầu cầu. Nó bảo, chúng mày vào thay à, bọn tao mệt sắp chết rồi, tao sợ lắm rồi mày ạ. Chết nhiều quá. Tôi hỏi quân xê mày chết nhiều à? Không! Lính nguỵ và dân. Rồi nó đi luôn. Nó đi như chạy trốn một điều khủng khiếp.

Đại đội trưởng bố trí đội hình. Các B trưởng bò quan sát khu vực đoạn đường chừng vài trăm mét của đại đội. Tiểu đội tôi bố trí cách cầu 100m. Vị trí của chúng tôi sau hai cây me
chua. Hai cây me nằm cách đường mươi mét gốc bằng đầu gối. Dưới gốc cây là ba xác lính và một người dân. Tối nhoang nhoáng tôi kéo một cái đệm từ một cái xe đò vỡ toang đắp lên
mấy cái xác xấu số. Chúng tôi đào hầm sau hai cây me. Nhưng chịu, tôi không thể đào được vì không có cuốc chim. Đất toàn sỏi thôi. Mà quái lạ chả thấy cái hầm nào của C3 để lại. (Sau này hỏi, chúng nó bảo: đã kịp đào đâu mà có hầm, mơ sáng ra đến đường là nổ súng liên miên tới lúc chúng mày vào đấy) Nhìn ra ngoài đường trong cái tối nhập nhoạng tôi thấy cái cuốc Mỹ cài sau một cái xe Zép. Tôi nhào ra lấy cái cuốc. Bây giờ mới để ý người chồng mang quân phục sĩ quan chết gục trên vô lăng. Người vợ chết ngửa người ghế bên. Chắc chị ta khi chết cố vươn người lên nên người vắt cong lên tấm dựa lưng phơi mảng bung xám ngắt. Tôi bỏ ngay ý định lấy cái cuốc, chạy về sau hai cây me ôm ba cục đá to chắn lên phiá trước.
Cả đêm ấy tôi không ngủ mắt cứ nhìn ra hai vợ chồng người lính chết trên xe. Hai cái xác ướt thũng sương lạnh cao nguyên. Trong đêm, vài lần nổ súng với những toán lính liều lĩnh vượt cầu. Chúng tôi không dám ngủ. Trăng suông. Từ trên cành me sương rỏ giọt lành lạnh. Tôi lạnh gai người vì mấy cái xác chết phía ngoài gốc cây chỉ cách mình hai sải tay. Ngửa mặt lên cây không muốn nhìn những gì trên mặt đất. Trong vòm trời lờ mờ những quả me cong cong như quả đậu ván rung rinh. Cái hình ảnh chùm me treo trong đêm ám ảnh tôi tới bây giờ. Trận địa đêm ắng xuống. Ngoài phía bờ sông có những đống lửa chả biết của dân đốt nương hay của người di tản leo lét cháy. Chả ai muốn mò ra xem ta hay địch nữa. Chúng tôi thức bải hoải. Cây me cũng thức. Nó chứng kiến những sinh mạng kia lúc lìa đời, nó chứng kiến những chiếc xe tăng M41, M48 hoá thành cỗ quan tài lửa sáng nay, nó cũng tả tơi cành lá vì mảnh pháo. Nhưng nó vẫn sống. Đêm nay nó cũng nghẹn ngào ngậm những giọt sương đêm và nhọc nhằn che sương cho những người lính phía bên kia và che cả cho tôi đỡ lạnh...
(Tiếp)

Tháng ba nắng suồm suộm trên khắp rừng Tây Nguyên. Chúng tôi từng qua những tháng ba ở Gia Lai, kon tum. Ở đấy miên man những là hoa dã quỳ , những triền đồi hoa xấu hổ chập chùng và nương rẫy cà phê . Càng ra xa mé biên giới phía tây càng nhiều rừng khộp. Rừng khộp nhôm nhoam vàng, xanh xỉn đói nước. Lúc này tháng ba ở Phú Bổn đã kém xanh. Màu của rừng Cheo Reo vàng râm ran. Vàng nhức nhối vì ve kêu và bụi đất. Hai ngày nay, cả thung lũng này mùi rừng cháy, nhà cháy, xen vào bụi ba zan cũng cháy, khiến mùi không khí ngòn ngọt, mùi thuốc đạn đăng đắng, quện lẫn vào nhau, cay xè mắt, khiến mắt bộ đội lúc nào cũng rỉ ngoèn ngưa ngứa. Ngửa mặt lên giời là mây trắng tinh từng vạt mỏng như khăn voan bay dập dìu về phía biển Tuy Hòa. Tháng ba năm ấy sao mà trời xanh đến thế. Xanh đến buốt lòng.

Sáng 20/3. Tàn binh địch rút chạy phía bờ sông Ba và phía trong rừng. Cầu cây Sung xập xuống như một cái cầu hình chữ V. Con suối cạn chảy ra sông Ba giữa những đụn cát vàng nước trong veo nay be bét những vết xich xe và xác người. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị hành quân về hướng Phú Túc. Đại đội ra ven đường núp vào dưới bóng những cây me coc cằn. Nắng chói chang. Tôi xuống suối múc nước. Cán bộ dặn , đào vũng ven bờ để nước suối ngấm qua cát vào mà gạn nước vì suối nhiều xác người. Có một xác chiếc xe đầy xác người rúc đầu vào bụi gai. Tôi cố không nhìn vào chiếc xe. Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc. Tôi ngoái lại, trong đống xác người có một đứa bé chừng hai tuổi bò trên những cái thây người xám đen từ hôm qua. Kì lạ thế. Nó rất tỉnh táo. Mắt ráo hoảnh. Tôi nhìn lên đường thấy anh Chới A10 người Chương Mỹ liền gọi. Anh Chới ơi xuống đây. Anh Chới chạy xuống. Anh ào vào cái xe cháy . Đứa trẻ bu lên anh. Chới kêu, ối giời ôi sao mà mày còn sống được hả cháu! Cái quần két đen máu, chới vứt đi nó chỉ còn cái áo. Con bé đang tập nói. Nó í éo, mắt long lanh sáng. Nó đói lắm. Nó cấu chắc vào tay anh Chới. Chới bế nó xuống suối rửa chân tay và lau mặt nó rồi bế lên đường cho nó ăn miếng lương khô. Hàng quân ngồi đợi hành quân đi đánh tiếp xúm vào đứa bé. Bọn Bê hai mang về một thằng sĩ quan tâm lí chiến. Nó bảo nó người Huế và từng là cử nhân văn chương. Nó nói đến là nhiều, nào là về chủ nghĩa này khác và cam đoan rằng chủ nghĩa cộng sản các anh sẽ thua chúng tôi. Cả hàng quân toàn lính trẻ cười ồ. Kệ mẹ mày, cho mày hót. Lúc này chả ai thèm nghĩ đến chuyện cho thằng tù binh này một phát ak. Chỉ lo cho cháu bé. Có mấy thằng lính trẻ Phú Thọ đánh trận đầu hỏi tôi, bố mẹ nó đâu anh nhỉ? Tôi cũng im lặng chả biết nói gì. Chới bế đứa trẻ lại đưa cho tên tù binh. Này mày là cử nhân cử tỏi cũng được. Việc của mày là bế đứa trẻ này và đi về hướng rừng xanh kia. Ở đấy có người của quân GP họ sẽ nuôi đứa bé và họ cho mày vào đội hình của mày. Đứa trẻ khóc ré lên. Ôm chặt lấy anh Chới. Anh Chới cũng khóc. Chới bảo, đi theo nó để mà sống con ơi. Chú còn phải đi đánh nhau bây giờ. Cả đội hình xê tôi nghèn nghẹn.
Thằng sĩ quan bế đứa trẻ đi rồi. Tôi bảo mấy chú lính mới Phú Thọ. Chúng mày đi theo nó luôn đi. Thế nào nó cũng vứt con bé vào bụi cây mà xem. Mười phút sau lính ta lôi thằng sĩ quan về và đứa bé khóc ngặt nghẽo. Chới ôm chầm lấy nó. Một thằng dộng cho thằng sĩ quan tâm lí chiến mấy báng súng. Mày muốn chết ngay bây giờ không? Hự. Đại úy này? Hự. Văn chương này? Hự hự. Chỉ việc bế đứa trẻ đi vô cái suối cạn, thì mày cũng sống và người ta sẽ cứu nó mà mày nỡ vứt nó vào bui rậm. Thằng sĩ quan ngụy mặt tái dại run rẩy. Vừa lúc có mấy thằng lính vận tải c25 đi vào. Chúng nó bế đứa bé đi. Anh Chới khóc. Con bé cũng khóc. chúng tôi ngồi ở đầu cầu cây sung nghẹn ngào. Lúc ấy chừng 4 giò chiều.
Đêm ấy hành quân qua đèo Tu na lúc chập choạng. Anh Kế C trưởng nói oang oang. Sẽ đánh Phú Túc tiếp sau đây. Nghe biết vậy chả thằng nào lo. Mệt quá rồi thì chỉ cần ngủ. Cả B hơn hai chục thằng ngồi một xe. Trời sáng suông, tôi ngủ chừng đến 9 giờ tối thì sờ không thấy quả US ở thắt lưng. Xe lắc lư lặng lẽ. Tôi nói to, đừng thằng nào ngọ ngoạy, tao rơi qủa US gẫy 1 ngạnh. Cả xe nín thở, tôi mò mẫm thấy quả lựu đạn ngay dưới đít. Một thằng đưa cho tôi cái dây cao su quấn lại. Quấn xong cười hề hề. Từ lúc ấy cả xe không ngủ nữa. Đêm. Xe dừng cho Đội hình d7 vượt lên có cả mấy xe k63 chạy rầm rầm. C trưởng nói, họ đánh Phú Túc ta hành quân tiếp.
Nhật kí ghi : 24/3/1975

Đêm qua ra chặn một khúc đường lúc nửa đêm. Chừng 1 giờ sang có 7 chiếc xe Zeef chạy qua. Không có lệnh đánh. Tôi nghe ró lúc xe Zeef đến gần chỗ tôi tiếng một thằng nói: Sắp đến ngầm. Quay về …. lạc đường. Cả đại đội nằm lại tại chỗ trong cánh rừng cỏ tranh. Chừng 30 phút sau trời sáng hẳn về đến tiểu đoàn. Hóa ra chỉ cách tiểu đoàn 500 mét. Về đến tiểu đoàn bố trí đánh đường ngay. Đào hầm không đào nổi vì đá quá. Trời nắng, ăn cơm nắm không nuốt nổi vì không có thức ăn. Khát nước kinh khủng. Cả tiểu đội chỉ còn nửa bi đông nước. MÌnh thiu thiu ngủ. Chừng 10 giờ sáng thì nghe xe tăng chạy. Tôi hô cả tiểu đội. Đánh rồi. Tôi vác B40 lao xuống đường. bốn năm chiếc xe tăng đã vượt qua. Vừa lao thò ra khỏi rừng cây gặp ngay xe tăng , mình lùi lại mép rừng. B41 của thằng Mật người Tản Hồng bắn cháy một chiếc . Đạn nổ rầm trời. Thằng Cóong Cao Bằng cũng nổ một quả. Vừa lúc cái xe tăng chất đầy bao gạo bao cát xung quanh lao tới . Mình bắn quả đầu đạn cày ngay xuống đất gần mép xích. Chạy sang ụ mối bên cạnh. Thì ra vội quá không kịp giương thước ngắm. Bắn quả thứ 2. Vừa lúc ấy thằng Viên thông tin chúi đầu vào gốc cây bịt tai. May mà mình kịp thấy nó. Đạn nổ. Ba thằng ngụy trên xe rơi xuống đỏ lòm. Cái xe tăng nổ bung tóe trắng những gạo . Nó khựng lại rồi lại chạy tiếp. Chạy đến quãng rừng gần bờ sông thì địch bỏ xe ở đấy . Lính địch chạy thoát. Quay về, tiểu đội lạc hai thằng. Thằng Mão người Đông Kinh Thái Bình bị đạn 12, 8 vào đầu tay vẫn cầm cái bi đông. Chắc nó khát nước. Giữa trưa. Đại đội còn lo giải quyết tử sĩ, trận đánh căng nhất ở phía đại đội 6. Đạn pháo tăng và B40 bên ấy hòa vào nhau như sấm sét. Lệnh tiểu đoàn c7 cho bám theo tiêu diệt xe tăng. Bộ phận bám địch chỉ có Đàm Bê phó , tôi và Cóng Cao bằng, một phóng lựu và hai b40 lao đi. Hàng đàn máy bay trực thăng bay sát ngọn cây bắn rầm rầm. Chúng tôi cứ nấp vào những gốc cây cổ thụ, chạy sâu đo từ gốc cây này sang gốc cây kia. Chỉ chừng hai cây số từ trận địa bắn xe tăng là ra tới ngầm CỦng Sơn. Đang trong rừng ra nhoàng bờ sông thì nhìn thấy xe tăng. Bốn chiếc đang lội sông. Nhìn thấy nó thì cũng là lúc nó nhìn thấy mình và bắn 12, 8 li. Ba thằng lăn xuống đất. Đạn 12, 8 phần phật chém cây cối phía sau. Bốn chiếc xe tăng gầm rú nghe khiếp đảm. May là xe xuống sông còn chúng tôi trên cao lại khuất bờ sông dựng đứng và dặng tre. Đạn cứ ăn trên đầu. Pháo tăng nổ điên đầu nhưng đều vượt vào rừng cổ thụ phía sau. Chừng 15 phút sau. Không thấy xe tăng địch lên. Chúng cũng hoảng nên chạy thoát thân . Lúc ấy Pháo cối 82 của tiểu đoàn mới bắn. Đạn rơi tung tóe dưới sông. Địch bỏ xe chạy hết. Vậy là bên bờ cát khúc trên ngầm Củng Sơn có 4 cái xe tăng nằm lại đấy. Chiều tối d8 lên bố trí trận địa ngay khúc sông này. Cách ngầm 2 km . Ở phía ngầm có chừng hơn ngàn địch và vài trăm xe của dân. Tiểu đoàn cho đào công sự chiến đấu chống phản kích. Lúc này trung đoàn còn đang ở thị trấn Củng Sơn sau chúng tôi 6km Đêm ấy, trăng sáng Tiểu đoàn giao cho tôi dẫn một tổ lội sông kiểm tra xe tăng địch bỏ lại. Khuya lắm, nước sông lạnh, chúng tôi chèo lên xe, mò mẫm có một nồi cá kho. Chúng tôi mang xuống ngồi bãi cát ăn luôn bởi cả ngày hôm qua và hôm nay chúng tôi đang đói. Nồi cá kho sao mà ngon thế . Trăng trên bãi cát bờ sông Ba đêm 24/3/1975 ấy nhớ suốt đời. Trăng lành lạnh, trăng tanh tanh và gió cũng tanh tanh. Gió ở trận địa nhiều tử sĩ hẳn chả ai nghĩ tới nhớ tới làm gì. Thế mà tôi cứ nhớ. Nhớ đau nhớ đớn. Tôi ước, giá có anh nhà văn nào đi cùng chúng tôi đêm ấy để mà các anh ấy viết về nồi cá kho trong xe tăng đối phương và các anh sẽ viết về tinh thần chiến đấu ngoan cường…
Còn tôi, tôi lấy được cuốn sổ đăng bộ của một cái xe tăng để ghi nhật kí và một cái cà - vạt trong 1 cái xe tăng của một chú lính nào đó. Thế mà run rủi sao tôi giữ đến tận bây giờ. Và thật lạ, thật tình cờ tôi đã thắt cái cà vạt này trong ngày cưới của mình. Cái cà vạt tôi lấy trong xe tăng đêm 24/3/1975 bên bờ sông Ba.

HN 24/3/2020

No comments:

Post a Comment